Chủ Nhật, 24 tháng 8, 2025

TRIẾT HỌC VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ - HỒNG LIÊM

 


I. Khái luận về sở hữu trí tuệ


Trong đời sống, có rất nhiều thành quả được sinh ra từ trí tuệ, nhưng không phải thành quả nào cũng được bảo vệ bởi quyền sở hữu trí tuệ. Đối tượng bảo vệ của Quyền sở hữu trí tuệ không phải là bản thân “ý tưởng” hay “phương pháp” cụ thể, mà là cách thức và quá trình hình thành, thực hiện nên phương pháp đó. Ví dụ, bản thân “phương pháp tưới tiêu hiệu quả” không phải là đối tượng mà quyền sở hữu trí tuệ thật sự hướng tới, mà là lộ trình thực hành, phương pháp chăm bón, quan sát biểu hiện cây trồng,... Những kiến thức này được đúc kết qua: i. Trực tiếp từ kinh nghiệm lao động; ii. Gián tiếp qua nghiên cứu sách vở. Mà kiến thức từ sách vở suy cho cùng cũng là từ kinh nghiệm trực tiếp mà đúc kết lại. Vậy có thể nói, những “phương pháp” ấy là sản phẩm của lao động xã hội hóa.


Quyền sở hữu trí tuệ được định nghĩa là tập hợp các quyền đối với tài sản vô hình là thành quả lao động hay uy tín kinh doanh của chủ thể, được pháp luật bảo hộ. Quyền sở hữu bao gồm: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu.


Vấn đề là, không phải lúc nào chủ sở hữu của đối tượng sở hữu trí tuệ cũng là tác giả của nó. Chẳng hạn như người A sáng tạo nên một sáng chế theo nhiệm vụ từ công ty B giao cho theo hợp đồng và đầu tư vốn liếng vào, thì đương nhiên quyền sở hữu thành quả sáng tạo sẽ thuộc về công ty B, người A chỉ có quyền nhân thân đối với “đứa con” của mình chứ không có quyền tài sản. Từ đây nổi cộm lên hai quan điểm đối lập từ giới kinh tế học tư sản và phía những người Mác-xít. Một bên cho đây là động lực cạnh tranh để xã hội phát triển, một bên cho đây là một dạng tư hữu hóa lao động xã hội nhằm duy trì địa vị có lợi cho giai cấp thống trị. Vậy cần nhìn nhận ra sao?


II. Cơ sở triết học


Triết học về sở hữu trí tuệ bắt nguồn từ triết học về quyền sở hữu. Ở các nước tư bản chủ nghĩa, có ba cơ sở triết học hình thành nên pháp luật bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ: i. Triết học về giá trị lao động (John Locke); ii. Triết học về quyền tự do sáng tạo (Emmanual Kant và George Hegel); iii. Triết học về phương tiện (Jeremy Bentham). Theo triết học Locke, bất cứ tài sản gì là thành quả lao động của người nào thì người đó làm chủ sở hữu. Người lao động có thể cho, bán, trao đổi tài sản của mình (bất kể lao động chân tay hay lao động trí óc). Theo triết học Kant và Hegel, con người được tự do về tinh thần và ý chí. Để thực hiện quyền tự do ấy, con người phải có quyền sở hữu. Quyền sở hữu là công cụ để đạt tới tự do. Theo triết học Bentham, quyền sở hữu là công cụ, làm đòn bẩy để nhà nước khuyến khích các thành viên trong xã hội lao động, nhằm đạt được phúc lợi xã hội.


Các thuyết trên chỉ nêu được khía cạnh tích cực của quyền sở hữu trí tuệ. Triết học Marx-Lenin cũng công nhận cơ sở của quyền sở hữu là lao động. Tuy nhiên, Marx nhìn ra bản chất giai cấp trong khái niệm sở hữu. Giai cấp nào sở hữu nhiều của cải hơn thì sẽ sở hữu nhiều sức mạnh hơn trong xã hội, từ đó trở thành giai cấp thống trị. Đối với giai cấp bị trị, những khái niệm như “tự do”, “bình đẳng” trở nên không mấy ý nghĩa khi họ không có quyền sở hữu, từ đó không có quyền tự chủ, tự quyết thực chất. Đó là hình ảnh đối lập giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản trong xã hội. Sự đối lập này là nguồn cơn của mâu thuẫn giai cấp.


Từ đây ta còn thấy được khía cạnh tiêu cực của quyền sở hữu trí tuệ, đó là “việc tập trung quá nhiều tài sản vào tay thiểu số có quyền lực, dẫn tới việc các thiểu số này có khả năng lạm dụng quyền sở hữu. Một công ty nếu tập trung được khối lượng tư liệu sản xuất khổng lồ thì sẽ trở nên độc quyền”. Độc quyền sẽ dẫn tới mưu toan nâng giá sản phẩm phi mã so với giá trị thực chất và kiềm hãm sự phát triển của các công ty khác từ chỗ nghèo nàn phương pháp sản xuất.



III. Những mâu thuẫn của các cơ sở triết học


Thứ nhất, thuyết giá trị lao động của Locke và Hegel cổ vũ việc người lao động được hưởng lợi từ những gì mà họ làm ra. Nhưng quyền sở hữu trí tuệ không phải bao giờ cũng phục vụ cho bản thân người lao động. “Pháp luật về sở hữu trí tuệ quy định sản phẩm lao động trí óc được tạo ra theo quy định của hợp đồng lao động, hợp đồng dịch vụ hay theo nhiệm vụ thì quyền sở hữu trí tuệ không phải thuộc về người trực tiếp sáng tạo, mà thuộc về người sử dụng lao động, người thuê”. Chỉ một phần nhỏ doanh thu từ đĩa nhạc đến được tay ca sĩ, chỉ một phần nhỏ doanh thu từ sáng chế đến được tay người kỹ sư.


Thứ hai, những học giả cổ vũ cho thuyết này còn đi xa hơn, khi họ lập luận rằng: “Bản thân người sử dụng lao động, cụ thể hơn là người chủ tư sản, đã bỏ ra tiền bạc đầu tư cơ sở vật chất, máy móc, thiết bị,... để phục vụ cho công tác nghiên cứu của nhà khoa học, nên bản thân họ cũng đóng góp vai trò là “một người lao động”. Họ có quyền sở hữu chính đáng đối với những thành quả sáng tạo ấy và được hưởng phần lớn giá trị thặng dư là hợp lý”. Thế nhưng tại sao người lao động lại phải bị lệ thuộc quá trình sáng tạo của mình vào giới chủ? Vì bản thân người lao động, tác giả không có đủ cơ sở vật chất, tư liệu sản xuất phục vụ cho công tác nghiên cứu. Mặc khác, họ không thể theo đuổi các vụ kiện và các chi phí cho việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ vì tài chính eo hẹp.


Vấn đề nằm ở quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất TBCN đã cột chặt người lao động vào giai cấp tư sản. Một lẽ đơn giản là vì những người vô sản không có tư liệu sản xuất. Việc nhận lại lợi ích từ sự đầu tư tiền của, vật chất là hợp lý, nhưng sự đầu tư ấy không nhất thiết phải từ những người không lao động dưới hình thức “ban cho”, “tạo điều kiện” cho những người lao động. Một nhà khoa học giỏi đặt trong quan hệ sản xuất XHCN thì sẽ được xã hội cung cấp cho những vật chất và tư liệu sản xuất mà anh ta cần đề phục vụ cho công tác nghiên cứu. Năng lực của anh tới đâu, thì lượng tư liệu sản xuất dồi dào và hiện đại đến đó. Đó là ý nghĩa thực chất của câu nói “Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu” của Marx mà giới kinh tế học tư sản thường xuyên tạc. Hay nói đúng hơn là “Xét theo từng năng lực từng người, ban theo từng nhu cầu của anh ta” (theo nguyên văn từ câu “Jeder nach seinen Fähigkeiten, jedem nach seinen Bedürfnissen”). Và lẽ dĩ nhiên, thành quả khoa học ấy được hình thành trên cơ sở công hữu về tư liệu sản xuất, thì sẽ quay về phục vụ cho lợi ích chung của xã hội.


Thứ ba, quyền sở hữu trí tuệ không phải lúc nào cũng là công cụ thúc đẩy xã hội tiến lên như Bentham nhận định. Quyền sở hữu trí tuệ bị lạm dụng sẽ sinh ra độc quyền, dẫn đến tăng giá cả sinh hoạt, kìm hãm sự phát triển của xã hội.


Quyền sở hữu trí tuệ về lâu dài cũng sẽ ngày càng tích lũy tư bản vào trong tay thiểu số và xé toạc ranh giới giàu nghèo ra. Một vài người trong tầng lớp tư sản vì bị ảnh hưởng từ độc quyền và cạnh tranh cũng sẽ đi đến phá sản mà rơi vào hàng ngũ của giai cấp vô sản, thị trường hàng hóa thì ngày càng khan hiếm mà thị trường lao động cạnh tranh giữa những người vô sản ngày càng nhiều. Từ những lẽ đó, mâu thuẫn xã hội sẽ tiềm tàng nguy cơ vỡ trận.


Thế nhưng cần đặt ngược lại vấn đề. Khi xét đến khả năng quốc hữu hóa nền kinh tế của một xã hội cụ thể, cần xem xét xã hội ấy đã đáp ứng đủ tích lũy tư bản nhà nước và trình độ sản xuất hay chưa. Nếu chưa, thì việc áp dụng ngay tức khắc nền kinh tế kế hoạch chỉ vì muốn chữa ngay những cái khiếm khuyết của kinh tế thị trường là tả khuynh nóng vội. Trong thời kỳ quá độ lâu dài, kinh tế thị trường là một giai đoạn không thể tránh khỏi đối với con đường quá độ gián tiếp. Vì vậy nên phương án phù hợp trước mắt là làm sao để điều chỉnh cơ chế phân phối theo lao động trong quan hệ sản xuất, sao cho khai thác hiệu quả quyền sở hữu trí tuệ và hạn chế xé toạc ranh giới bất bình đẳng xã hội ra thêm. Và quan trọng nhất phải xác định được, mục tiêu cuối cùng của những chính sách ấy là gì.


Kết luận


Sở hữu trí tuệ có thể làm phát sinh độc quyền và các hệ lụy xã hội, tuy nhiên nó có thể là động lực để phát huy tính năng động và sáng tạo, hai động lực tiên quyết của nền kinh tế thị trường. Việc khai thác hiệu quả quyền sở hữu trí tuệ và triệt tiêu dần những ung nhọt khiếm khuyết của nó là một quá trình bền bỉ đi đôi với quá trình phát triển lực lượng sản xuất và cải tạo từng bước quan hệ sản xuất theo hướng XHCN. Không nên coi nó là chiếc chìa khóa vạn năng vĩnh cửu mà rơi vào hữu khuynh, càng không nên phủ nhận sạch vai trò của nó mà rơi vào tả khuynh./ .


(Bài viết lấy ý tưởng từ bài giảng về Luật Sở hữu trí tuệ của TS. Lê Nết)


Tài liệu tham khảo

1. Butler, B.E. (2021) Internet Encyclopedia of Philosophy

2. Schofield, P. S. and Hanris, J. (1998) The Collected Works of Jeremy Bentham - Legislator of the World

3. Duquete, D. (1999) George Wilhelm Friedrich Hegel - Social and Political Thought. Internet Encyclopedia of Philosophy

4. K.Marx. 1875. Kritik des Gothaer Programms


Share:

Thứ Sáu, 25 tháng 7, 2025

ÔN HÒA VÀ BẠO LỰC - TRƯƠNG DOÃN



“Song chúng tôi không bao giờ quyết đoán rằng để đạt tới mục đích đó, đâu đâu cũng phải dùng những biện pháp như nhau.

Chúng tôi biết rằng cần phải chú ý đến những thiết chế, phong tục và truyền thống của các nước khác nhau, và chúng tôi không phủ nhận rằng hiện có những nước như Mỹ, Anh - và nếu tôi hiểu biết rõ hơn về những thiết chế của các bạn thì tôi có thể thêm vào đó cả Hà Lan nữa, ở đây, công nhân có thể đạt tới mục đích của mình bằng biện pháp hoà bình. Nhưng nếu đúng là như thế đi nữa thì chúng tôi cũng phải thừa nhận rằng trong đại đa số các nước trên lục địa, bạo lực vẫn phải là cái đòn bẩy cho cuộc cách mạng của chúng ta; và có lúc sẽ phải dùng đến bạo lực để thiết lập một cách triệt để sự thống trị của người lao động.”

-Trích Bài diễn văn Hội Công nhân Quốc tế của Các Mác tại Am-xtơ-đam năm 1872


Đứng dưới lập trường Mácxít-Lêninnít ta phải khẳng định rằng không có công thức chung cho bất cứ cuộc cách mạng nào, bởi vì vậy sức mạnh của Chủ nghĩa Mác là phân tích cụ thể ở mọi tình hình cụ thể, học tập những kinh nghiệm có tính phổ quát và giải quyết những thứ không có tính phổ quát, vì mỗi nơi mỗi khác. Vấn đề bạo lực và ôn hoà cũng thế, từ khi các bậc tiền bối cách mạng như Mác, Ăngghen, Lênin ra đi thì vấn đề vốn tưởng chừng rất căn bản đã bị bỏ quên, ngày nay các Đảng Cộng Sản cũng phát triển lí thuyết Mác mà chỉ chăm chăm xuyên suốt một công thức trên tiến trình đấu tranh của họ.


Đầu tiên phải hiểu rõ hai khái niệm, đứng trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin quan điểm về nhà nước chính là công cụ đàn áp giai cấp dưới của giai cấp thống trị, chính vì vậy cũng trực tiếp nảy ainh đấu tranh bạo lực là phương thức đấu tranh sử dụng vũ lực để trực tiếp lật đổ giai cấp thống trị; Còn đấu tranh ôn hoà là phương thức đấu tranh tạo tiền đề để lật đổ giai cấp tư sản bằng tổng thể các hành động tuần hành, kêu gọi, biểu tình, đình công, đấu tranh trong nghị viện, các yếu tố trên diễn ra đồng bộ và dồn dập. Về bản chất, bạo lực không có nghĩa là diễn ra xuyên suốt mà phải đúng thời điểm; Ôn hoà không có nghĩa là chùn bước mà còn là con đường gian nan hơn nữa, hoàn toàn khác biệt với cải lương và cải cách, bởi vì nếu những người cải lương ủng hộ chủ nghĩa cải cách muốn từng bước thay đổi chủ nghĩa tư bản thì biện pháp ôn hoà của những người Mác-xít thường là để tạo tiền đề cho cách mạng vô sản, hoặc nếu chuyên chính tư sản quá yếu thì có thể dành chính quyền ngay, nhưng vẫn phải thực hiện cách mạng vô sản nhanh chóng trong một nước để bảo vệ nền cách mạng ấy. Song, cũng phải hiểu cách dùng từ "ôn hoà" của người viết có phần khác với một số người, vì thường từ "ôn hoà" lại bị đánh đồng với "hữu khuynh".


Bây giờ ta tiến tới xét về bối cảnh thực tiễn, như ta biết thời điểm chín mùi cho cách mạng vô sản là khi chủ nghĩa tư bản đang trong chu kì tổng khủng hoảng dẫn tới mâu thuẫn giai cấp đi đến đỉnh điểm, hiển nhiên sẽ đưa tổ chức Đảng Cộng Sản mạnh lên và vươn dài cánh tay của mình đến khắp đất nước bằng hệ thống quần chúng chặt chẽ và cơ sở chi bộ Đoàn Đảng. Tuy nhiên, không phải lúc nào phong trào cách mạng cũng sẽ xuất hiện suôn sẻ với khuôn mẫu như vậy, kể cả khi chu kì tổng khủng hoảng chủ nghĩa tư bản xảy ra cũng không như kịch bản vẽ sẵn, bởi vì quy luật tổng khủng hoảng có liên quan mật thiết với sự suy thoái của thị trường tiền tệ và sản xuất hàng hoá, nó còn là cuộc chiến tối đa lợi ích song song giữa các nhà tư sản, giữa các người mua và giữa người mua với người bán. Rút ra ở đây, nếu nhóm tư sản cũ đã suy yếu đi, một nhóm tư sản mới thay thế vị trí thống trị kinh tế của tư sản cũ trước kia, giúp nền kinh tế tư bản ấy trở lại giàu có nhờ sự tích lũy tư bản. Tiếp tục quy luật cạnh tranh và mở ra quy luật phát triển tiếp theo của chủ nghĩa tư bản. Chính vì vậy, vẫn phải xét đến sự hồi phục của chủ nghĩa tư bản trong một thời gian ngắn, đòi hỏi chính đảng cách mạng phải kiên trì phát triển tổ chức và lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm kim chỉ nam cho mọi hành động. Cũng từ đó, ta có ba điều kiện mà ta phải có cách giải quyết khác : Thứ nhất, là tổ chức cách mạng còn rất yếu, cho nên không thể thực hiện cách mạng vô sản; Thứ hai, là chế độ chuyên chính tư sản yếu đi, cho nên bạo lực này không cần thiết nữa. Nhưng đó chỉ là phân tích ở hai chủ thể mâu thuẫn, còn lòng tin của giai cấp vô sản nói chung và mọi tầng lớp lao động mới là thứ quyết định. Cũng từ đây, chính là mấu chốt để càng phân tích sâu vấn đề ôn hoà và bạo lực.



Khi phân tích mối liên hệ biện chứng giữa hai khái niệm này, trước hết là ta xét từ bên trong bản chất đấu tranh ôn hoà và đấu tranh bạo lực, ta thấy : Đấu tranh ôn hoà đồng thời có hai mâu thuẫn nội tại là phải đấu tranh hợp pháp và vừa đấu tranh bất hợp pháp. Còn đấu tranh bạo lực có mâu thuẫn nội tại là vừa phải đàn áp thiểu số đi bóc lột mà vừa phải giữ lấy cơ sở quần chúng. Trong chính sự tồn tại của đấu tranh ôn hoà là để tạo tiền đề cho mâu thuẫn hoặc giải quyết một mâu thuẫn nhưng không có tính phổ quát giống như bạo lực cách mạng, chỉ có nhiệm vụ duy nhất là giải quyết hoàn toàn mâu thuẫn.


Trong những điều kiện cụ thể, ôn hoà và bạo lực sẽ được vận dụng đan xen với nhau, đấu tranh ôn hoà sẽ thực hiện đan xen hoạt động hợp pháp như nghị trường, công tác công đoàn và hoạt động bất hợp pháp như vũ trang hoá nhân dân giống như đường lối của Đảng Lao Động Dân Chủ Xã Hội Nga những năm trước cách mạng; Và khi bè lũ thống trị hết cách, khi thời cơ đến hoặc ngay khi chúng hết cách mà chuyển sang đàn áp, sẽ chín muồi cho bạo lực cách mạng. Nhìn chung, đấu tranh bạo lực là đòn giải quyết mâu thuẫn trước tiên, còn đấu tranh ôn hoà là đòn chiến lược chính trị. Tuy nhiên, tùy vào điều kiện thực tiễn để phát triển đường lối xây dựng và đấu tranh, chẳng hạn nếu trong nước có những mâu thuẫn nội tại khó giải quyết hơn như Trung Quốc thì Mao Trạch Đông đã sáng tạo ra chiến lược "Chiến tranh nhân dân trường kì".


Sự xuất hiện của Chủ nghĩa xét lại Khơ-rút-chốp và Chủ Nghĩa đế quốc xã hội Bơ-réc-nhép là nhát dao lớn nhất cho mối liên hệ biện chứng giữa con đường bạo lực và ôn hoà. Cho đến sau sự sụp đổ của Liên Xô, những người chỉ trích mặt ôn hoà trong mối liên hệ này là tả khuynh xuất phát từ sự không hiểu rõ khái niệm này; Còn những người bác bỏ tính bạo lực trong phương thức đấu tranh là những kẻ hữu khuynh, họ xuất phát từ tính tư sản hèn nhát, sợ đấu tranh. Ta phải kiên quyết phê phán những quan điểm phi-biện chứng này.


Những điều trên là lý thuyết, chúng ta cũng cần bàn tới trong thực tế lịch sử. Một phong trào đấu tranh tiêu biểu là của Đảng Cộng Sản Đức (KPD) do Ơn Tha-man lãnh đạo chuyển hướng từ cách mạng vô sản sang việc đấu tranh nghị trường và lãnh đạo công đoàn để đợi ngày tiến hành cách mạng vô sản một lần nữa, tiếc thay làn sóng của những kẻ quốc xã lại làm cho một trong những hy vọng về cách mạng vô sản tại Đức không thành, nhưng cũng phải thừa nhận đó là Đảng Cộng Sản Đức khi ấy đã bị tả khuynh khi cô lập các Đảng có công nhân tín nhiệm cao hơn giống như Đảng Dân Chủ Xã Hội (SPD). Một ví dụ khác là tại Chi-lê, Đảng Xã Hội của A-len-đê đã thắng cử năm 1970 và ông tiến hành nỗ lực xây dựng chuyên chính vô sản rồi đến năm 1973 ông đã bị lật đổ, sai lầm của ông là ảo tưởng có thể xây dựng chuyên chính vô sản Chi-lê trên chính bộ máy tư sản, và nghiêm trọng nhất là ông không mau chóng vũ trang hoá toàn dân để mau chóng thực hiện một cuộc đảo chính thần tốc quét sạch đám nội phản trong bộ máy, cho nên kết cục của ông là một bài học cho chúng ta.


Nói tóm lại, ta có thể khẳng định rằng : Bạo lực cách mạng là cốt lõi vì tính phổ quát của nó,  ôn hoà là điều kiện có thể nhưng hiếm bởi vì tính không phổ quát của nó. Quan trọng nhất, phải hiểu rõ tất cả những điều này, nắm rõ duy vật biện chứng để thoát khỏi cả hai nạn tả khuynh và hữu khuynh.


Lưu ý rằng, bài viết này chỉ là sự nhắc lại học thuyết Mác - Lênin, nhất là có một số tình tiết trùng hợp với vài thời điểm tình hình cách mạng trong quá khứ.


Share:

Thứ Sáu, 27 tháng 6, 2025

LÝ GIẢI SỰ BÁ QUYỀN CỦA TRUNG QUỐC - GÀ RỪNG

 





Trung Quốc đang trỗi dậy, đó là một sự thật không phải bàn cãi. Kể từ sau các cải cách kinh tế mang tính bước ngoặt dưới thời Đặng Tiểu Bình, nền kinh tế của Trung Quốc đã chuyển từ kế hoạch hóa tập trung sang cho phép kinh tế tư nhân tồn tại và thu hút vốn đầu tư nước ngoài, dựa vào nền tảng đó, kinh tế Trung Quốc tăng trưởng phi mã trong các thập niên tiếp theo, vượt qua các “ông lớn” tư bản như Nhật, Đức để trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới sau Hoa Kỳ. Một mặt, giới cầm quyền nước này gọi các cải cách ấy là “Chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc”, nhưng về bản chất, nền kinh tế Trung Quốc hiện nay là sự kế thừa không đầy đủ mô hình tư bản nhà nước [1], khi mà chính quyền trung ương và giới tư bản cùng phối hợp với nhau để tham gia vào thị trường. Và như một quy luật của lịch sử, khi chủ nghĩa tư bản phát triển đến đỉnh điểm, nó dần chuyển mình thành chủ nghĩa đế quốc. Trung Quốc ngày nay chính là một ví dụ điển hình.

Nguyên nhân cho vấn đề này là gì ? Có hai nguyên nhân: Chính trị và kinh tế. Theo quan điểm cá nhân, tôi cho rằng kinh tế là động lực trực tiếp, nhưng chính trị là nền tảng của vấn đề, do vậy, bài viết này sẽ đào sâu vào nguyên nhân chính trị hơn. Tất nhiên nguyên nhân kinh tế cũng sẽ được tôi đề cập.

Trước tiên là về chính trị. Tôi cho rằng đảng cầm quyền của Trung Quốc hiện nay (ĐCSTQ) đang theo chủ nghĩa xét lại [2] – là xu hướng xét lại, thay đổi, điều chỉnh những nguyên lý cơ bản và mang tính cốt lõi của chủ nghĩa Marx – Lenin như đấu tranh giai cấp, chuyên chính vô sản hay quan hệ về sản xuất. Để làm rõ hơn khái niệm trừu tượng này, chúng ta cùng đến với Học thuyết con mèo của Đặng Tiểu Bình cùng lời nhận định nổi tiếng mà hầu như những ai tìm hiểu về chính trị đều ít nhất một lần được nghe qua - “Mèo trắng hay mèo đen không quan trọng, miễn là bắt được chuột” [3]. Có nghĩa là gì ? Có nghĩa là không quan trọng là tư bản hay xã hội chủ nghĩa, thứ nào có thể phát triển kinh tế thì được áp dụng. Và trong trường hợp này, Đặng Tiểu Bình đã cho phép tư bản tồn tại trên đất Trung Quốc.

Trong những năm đầu của Liên bang Xô Viết, Lenin cũng đã từng cho phép thị trường tự do và chủ nghĩa tư bản tồn tại [4]. Tuy nhiên, bản thân Lenin cũng luôn xem nó chỉ là một giải pháp tạm thời để khôi phục nền kinh tế sau Đệ Nhất thế chiến và nội chiến. Còn Trung Quốc thì ngược lại. Từ khi thực hiện các cải cách, họ luôn xem tư bản như công cụ không thể thiếu trong chiến lược phát triển quốc gia. Như vậy ta có thể thấy, Học thuyết con mèo chính là tiền đề, là mảnh đất màu mỡ cho chủ nghĩa tư bản có cơ hội phát triển ở Trung Quốc một cách lâu dài.

Để tiếp tục đào sâu hơn vào vấn đề này thì chúng ta phải quay ngược về năm 2004, khi mà Thuyết Ba Đại diện của Giang Trạch Dân chính thức được cụ thể hóa thành các điều cơ bản trong Hiến pháp [5]. Một mặt, nó kế thừa những đường lối được vạch ra trước đó bởi Đặng Tiểu Bình, mặt khác, nó chính là cột mốc đánh dấu sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc Trung Hoa và đặc biệt là bỏ qua các lý luận về đấu tranh giai cấp, vốn là cốt lõi của Triết học Marx – Lenin.  

Vậy thì Ba Đại diện nghĩa là sao ? Đại diện cho cái gì ? Câu trả lời đều lấy trung tâm là Đảng Cộng sản Trung Quốc. Thứ nhất, ĐCSTQ là đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến nhất. Thứ hai, ĐCSTQ là đại diện cho nền văn hóa tiên tiến nhất. Cuối cùng, ĐCSTQ đại diện cho quyền lợi của đa số quần chúng. Nói thẳng ra, thì thay vì đại diện cho quyền lợi của giai cấp vô sản (chủ yếu là công nhân, nông dân), thuyết Ba Đại diện cho rằng ĐCSTQ là đại diện của mọi tầng lớp xã hội, bao gồm cả giới tư sản, chủ doanh nghiệp - những thành phần vốn là mục tiêu đấu tranh của tư tưởng Marx – Lenin chính thống. Về mặt kinh tế, thuyết này cũng cho thấy sự xa rời chủ nghĩa xã hội của Trung Quốc khi khẳng định vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế quốc gia. Hậu quả là sau này, xã hội Trung Quốc dần hình thành giới “tư bản đỏ”. Cho dễ hiểu thì “tư bản” ở đây chính là các cá nhân giàu có, nắm trong tay nhiều của cải, tiền bạc, tài sản, “đỏ” ở đây là có mối quan hệ hoặc dựa vào chính trị để làm giàu. Bằng chứng là rất nhiều các chủ doanh nghiệp, tỷ phú Trung Quốc cũng đồng thời là đảng viên như Mã Vân (Jack Ma) [6] hay Vương Kiện Lâm [7]. Ở các cấp hành chính thấp như phường, xã, thị trấn, “tư bản đỏ” cũng nắm giữ những chức vụ cao, có vai trò lãnh đạo. Thậm chí giới chủ doanh nghiệp cũng dần thâm nhập, “có chân” trong các cơ quan có vai trò tham mưu, tư vấn, đề xuất chính sách phát triển cho chính phủ, điển hình như Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân [8]. Nên nhớ rằng trong những năm đầu thành lập, Liên Xô cũng cho phép tư nhân và kinh tế thị trường tồn tại [9]. Tuy nhiên, nó luôn được đặt dưới sự quản lý chặt chẽ của chuyên chính vô sản, trái ngược hoàn toàn với hiện trạng của ĐCSTQ ngày nay, để giới tư sản len lỏi vào lực lượng lãnh đạo tiên phong của giai cấp vô sản.

Về mặt tổng quát, thuyết Ba Đại diện cho rằng, ĐCSTQ thay vì là đại diện cho quyền lợi của giai cấp cần lao, thì nay được xem là “đảng của toàn dân” và tư nhân được coi là “lực lượng sản xuất tiên tiến” của quốc gia. Dù về danh nghĩa vẫn là xã hội chủ nghĩa, nhưng về bản chất, ĐCSTQ đang nghiên về phía giới chủ doanh nghiệp hơn là về phía nhân dân lao động, mặc cho bất bình đẳng giàu nghèo ngày càng tăng. Bản thân tôi cho rằng, chủ nghĩa xét lại đã làm Trung Quốc, hay đúng hơn là ĐCSTQ đi chệch khỏi con đường chủ nghĩa xã hội bằng sự thỏa hiệp với chủ nghĩa tư bản. Nó không khác gì sự thoái lui của giai cấp vô sản, phủ nhận sự đấu tranh giai cấp trong Triết học Marx – Lenin. Và cũng theo Triết học Marx – Lenin, khi chủ nghĩa tư bản đã “có đất” để sinh sôi và được tạo điều kiện để phát triển đến đỉnh cao, chủ nghĩa đế quốc và tham vọng bành trướng sẽ tự khắc xuất hiện.

Sau là nguyên nhân kinh tế. Ta có thể giải thích dễ dàng bằng các lý luận của Lenin mà cốt lõi là khái niệm xuất khẩu tư bản [10]. Khi chủ nghĩa tư bản phát triển chóng mặt ở Trung Quốc sau một thời gian dài, thị trường trong nước dần bão hòa và không còn khả năng sinh lời cao nữa. Lúc này, các nhà tư bản Trung Quốc buộc phải mở rộng thị trường ra khỏi phạm vi nội địa và tiếp cận các nguồn nguyên liệu thô từ bên ngoài. Việc bành trướng lãnh thổ, bá quyền, cốt là để bảo vệ những nguồn lợi kinh tế đó cho giới tư bản Trung Quốc. “Đường 9 đoạn” và Biển Đông là một ví dụ điển hình.

Sự thay đổi về lượng sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất, chủ nghĩa đế quốc của các nước Phương Tây năm xưa hay sự bành trướng của Trung Quốc ngày nay đều sinh ra khi chủ nghĩa tư bản phát triển đến đỉnh điểm, chỉ khác là nó được hậu thuẫn bởi chủ nghĩa xét lại và núp dưới cái danh xã hội chủ nghĩa mà thôi. Nhìn từ góc độ Marx - Lenin, tôi cho rằng chủ nghĩa bá quyền của Trung Quốc ngày nay chỉ có thể bị đánh đổ bằng sự đấu tranh giai cấp. Do vậy các lực lượng vô sản toàn cầu, từ Việt Nam tới Ấn Độ, từ Nhật Bản đến Mã Lai, từ Phi Luật Tân đến Pakistan và từ mọi quốc gia khác, không phân biệt màu da, tiếng nói hay sắc tộc, cần phải hợp sức, đoàn kết với lực lượng vô sản Trung Quốc để dẹp tan chủ nghĩa bá quyền của nước này. 

-------------------------------------------
[1]: https://en.wikipedia.org/wiki/State_capitalism
  [2]:https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BB%A7_ngh%C4%A9a_x%C3%A9t_l%E1%BA%A1i_(ch%E1%BB%A7_ngh%C4%A9a_Marx) 

[3]: https://en.wikipedia.org/wiki/Cat_theory_(Deng_Xiaoping)
 
[4]: https://en.wikipedia.org/wiki/New_Economic_Policy
 
[5]: https://vi.wikipedia.org/wiki/Ba_%C4%91%E1%BA%A1i_di%E1%BB%87n 

[6]: https://tuoitre.vn/ti-phu-ack-ma-duoc-cong-bo-la-dang-vien-dang-cong-san-trung-quoc-20181127113337206.htm 

[7]: https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C6%B0%C6%A1ng_Ki%E1%BB%87n_L%C3%A2m
 
[8]: https://nghiencuuquocte.org/2016/06/11/thuyet-ba-dai-dien-three-represents-theory/ 

[9]: https://en.wikipedia.org/wiki/New_Economic_Policy 

[10]: Vladimir Ilyich Lenin – “Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản” – bản dịch tiếng Việt – trang 103 – Nhà xuất bản Tiến bộ





Share:

Thứ Tư, 25 tháng 6, 2025

CHÍNH SÁCH KINH TẾ MỚI Ở NGA - TRƯƠNG DOÃN

 






1.Sơ lược.

Chính sách kinh tế mới hay viết tắt là “NEP” là chính sách kinh tế tạm thời do Lênin đề ra để áp dụng cho Chính quyền Xô-viết bắt đầu từ 1921 và kết thúc vào năm 1928 bởi Xtalin.


2. Bối cảnh.

Trong thời kì chiến tranh Cách mạng Nga, Chính quyền Xô-viết để phục vụ chiến tranh và duy trì hậu cần thì phải áp dụng chính sách “Cộng sản Thời chiến” là chính sách nhà nước kiểm soát toàn bộ nền kinh tế, tích lũy hàng hoá và tiếp tế cho quân đội và các miền đang đói, độc quyền tất cả lương thực thừa của nông dân, phân phối hàng hoá dựa trên tem phiếu 1*.


Tuy nhiên, sau khi cách mạng giành thắng lợi thì nhà nước Liên Bang Xô-viết bắt đầu giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội. Một vấn đề cơ bản nảy sinh : Vì nước Nga Xô-viết và các nước Xô-viết khác vốn là các nước có nền sản xuất Tư bản Chủ nghĩa mức trung bình,  còn ở các nước thành viên khác trong Liên Bang thậm chí có nền sản xuất phong kiến lạc hậu do bị Chính quyền Sa Hoàng thực hiện chính sách đàn áp văn hoá và kinh tế trong liên tiếp nhiều năm 2*. 


Từ những vấn đề trên, ban đầu thì có một số nhà hoạt động mang nặng tư tưởng giáo điều, chưa hiểu rõ hoặc cố làm sai lệch quy luật kinh tế Mác-xít đã cho rằng nước Nga khi đó không có các cơ sở tiền đề kinh tế khách quan để xây dựng Chủ nghĩa Xã hội, chẳng hạn như ông Ni-cô-lai Su-kha-nốp đã bị Lênin phê phán trong tác phẩm “Cuộc cách mạng của chúng ta” 3*.


Lúc bấy giờ, chỉ có hai con đường cho toàn thể Liên Bang : Thật linh hoạt để bằng mọi giá tiến lên cứu lấy nền kinh tế nước nhà; Hay tiếp tục trì trệ dẫu bánh xe lịch sử tiếp tục quay? May mắn thay, Đảng Cộng Sản Bôn-sê-vích đã chọn phương án đầu tiên, nhưng họ trong giai đoạn ấy đã bắt đầu thế nào, ta sẽ nghiên cứu tiếp theo.


3. Kinh tế Liên Xô trong thời kì chính sách NEP.

3.1) Tính Chất Của Chủ Nghĩa Tư Bản Nhà Nước Xô-viết.

Trước hết, trong các giai đoạn phát triển của Chủ nghĩa Tư bản. Khi nền kinh tế Chủ nghĩa Tư bản tự do tồn tại sơ khai trước kia đã không còn hiệu quả nữa, nhà nước sẽ phản ứng bằng cách can thiệp sâu rộng vào nền kinh tế tư nhân đó và vận hành kinh tế tư nhân nhưng vẫn có sự chỉ đạo và kế hoạch của nhà nước. Chủ nghĩa Tư bản nhà nước không chỉ xuất hiện ở các nhà nước Tư sản mà còn là ở các nhà nước Xã hội Chủ nghĩa. Tuy nhiên, vẫn có sự khác biệt về bản chất và vai trò giữa chế độ đó ở hai kiểu nhà nước kia đã được Lênin chỉ ra :


*Thứ nhất, về bản chất, mục đích mà nó tồn tại so với Chủ nghĩa Tư bản nhà nước ở các nước Tư sản:

“Chủ nghĩa tư bản nhà nước, một trong những khía cạnh chính của Chính sách kinh tế mới, dưới quyền lực của Liên Xô, một hình thức chủ nghĩa tư bản được giai cấp công nhân cố ý cho phép và hạn chế. Chủ nghĩa tư bản nhà nước của chúng ta khác về bản chất với chủ nghĩa tư bản nhà nước ở các quốc gia có chính quyền tư sản ở chỗ nhà nước với chúng ta không phải do giai cấp tư sản đại diện, mà là giai cấp vô sản, những người đã thành công trong việc giành được lòng tin hoàn toàn của giai cấp nông dân.” 4*.


*Thứ hai, cơ sở thực tế để đảm bảo nó tồn tại vững chắc và hiệu quả mà không sụp đổ hay thoái trào :

“Thực ra, quyền lực chính trị của Xô Viết đối với mọi phương tiện sản xuất quy mô lớn, quyền lực trong nhà nước nằm trong tay giai cấp vô sản, liên minh của giai cấp vô sản này với hàng triệu nông dân nhỏ và rất nhỏ , sự lãnh đạo chắc chắn của giai cấp vô sản đối với nông dân, v.v., … chẳng phải đây là tất cả những gì cần thiết để từ các hợp tác xã – chỉ từ các hợp tác xã mà trước đây chúng ta coi là buôn bán, và về một khía cạnh nào đó, chúng ta có quyền coi như vậy hiện nay, theo chính sách kinh tế mới – chẳng phải đây là tất cả những gì cần thiết để xây dựng một xã hội xã hội chủ nghĩa hoàn chỉnh sao? Đây chưa phải là xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa nhưng đó là tất cả những gì cần thiết và đủ cho việc xây dựng này.” 5*.


Cuối cùng, chủ nghĩa tư bản ở một góc độ nào đó có đi ngược chủ nghĩa xã hội không?

“Chủ nghĩa xã hội chỉ là bước tiến tiếp theo từ độc quyền nhà nước tư bản… không cuộc nổi loạn nào có thể mang lại chủ nghĩa xã hội trừ khi các điều kiện kinh tế cho chủ nghĩa xã hội đã chín muồi… chủ nghĩa tư bản nhà nước độc quyền là sự chuẩn bị vật chất hoàn chỉnh cho chủ nghĩa xã hội, ngưỡng cửa của chủ nghĩa xã hội, một bậc thang trên chiếc thang lịch sử mà giữa nó và bậc thang được gọi là chủ nghĩa xã hội không có bậc thang trung gian nào .” 6*.


3.2) Chính sách Kinh Tế.

*Thứ nhất, về các thành phần kinh tế :

“Chúng ta hãy liệt kê những yếu tố sau:


(1) chế độ phụ hệ, tức là ở mức độ đáng kể, nông dân canh tác theo phương thức lạc hậu;


(2) sản xuất hàng hóa nhỏ (bao gồm phần lớn những người nông dân bán ngũ cốc của họ);


(3) chủ nghĩa tư bản tư nhân;


(4) chủ nghĩa tư bản nhà nước;


(5) chủ nghĩa xã hội.” 7*.


*Thứ hai, thuế lương thực mà người dân phải nộp là thuế hiện vật, nghĩa là phải nộp thuế bằng hiện vật hiện có 7*.


3.3) Ý Nghĩa.

Như vậy, ý nghĩa về sự tồn tại của NEP là :

-Kết thúc chủ nghĩa cộng sản thời chiến.

-Cho phép một thị trường và các thành phần kinh tế phi-xã hội chủ nghĩa để kích thích kinh tế tăng trưởng.

-Phục hồi kinh tế, phát triển lực lượng sản xuất.

-Có sự điều tiết của chế độ chuyên chính vô sản.


—⟩ Quan trọng nhất, cũng là mục đích cuối cùng của chính sách này là : Thiết lập nền tảng cần thiết cho việc tạo ra nền kinh tế quốc dân-kế hoạch để tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội cho đến ngày thắng lợi.


4) Kết quả.

Ở lĩnh vực sản xuất, về nông nghiệp, tính tới năm 1924/25 thì tổng sản lượng tất cả các ngành đã tạo ra hơn 9 tỷ rúp cho nền kinh tế; Về mặt công nghiệp, tính tới 1924/25 thì tổng sản lượng các ngành thì nó đã tạo ra 5 tỷ rúp. Nói tóm lại, tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình giữa năm trước chiến tranh là 1913 và năm sau chiến tranh 1924/25 là 82%.


Ở gốc độ về vai trò của các thành phần kinh tế chính trong nền kinh tế. Về việc thống kê tích lũy sở hữu vốn, nhà nước giữ 11,7 tỷ rúp còn khu vực tư nhân chỉ có 7 tỷ rúp; Về thị phần giữa quốc doanh và hợp tác xã so với tư nhân trong tổng sản lượng công nghiệp, thì trong năm 1924-25 quốc doanh và hợp tác xã chiếm 79,3%, còn tư nhân là 20,7%.


Vấn đề điện khí hóa, tính đến năm 1924/25 đã xây dựng các trạm có công suất 152,35 nghìn killowat 8*.


Nói tóm lại, NEP là sự thành công của việc vận dụng linh hoạt Chủ nghĩa Mác-Lênin, tạo tiền đề cho việc xây dựng nền kinh tế quốc dân-kế hoạch hoá thịnh vượng và huy hoàng sau này.

___________

Chú thích :

1* : Đại Hội Đại Biểu Đảng Bôn-sê-vích lần thứ 9 năm 1920


2* : Nhân Quyền Ở Liên Xô - An-bớt Xgi-man-xki (Albert Szymanki) trên nền tảng Prolewiki


3* : Cuộc cách mạng của chúng ta - Lênin


4* : Gửi đến thuộc địa Nga ở Bắc Mĩ - Lênin.


5* : Về hợp tác - Lênin


6* : Cách chống lại thảm hoạ sắp xảy ra - Lênin.


7* : Thuế hiện vật - Lênin.


8* : Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương đến Đại hội lần thứ 14 của Đảng Cộng sản Liên Xô (Bôn-sê-vích) - Stalin


Share:

Thứ Bảy, 21 tháng 6, 2025

CƯƠNG YẾU BIỆN CHỨNG CỦA SỰ TIẾN HÓA - EUREKA

 




Tổ tiên nhân loại: Loài vượn hay là đất sét ?



Đã hơn 200 năm trôi qua kể từ khi Darwin-ông kẹ của những quý ngài trùm khăn với những phát ngôn huênh hoang về ân điển của chúa-  đã lật nhào các hệ thống thần học với công trình nghiên cứu mang tính biểu tượng của cuộc đời mình- Thuyết tiến hóa cổ điển Darwin. Mặc dù vẫn còn những hạn chế và thiếu sót do các yếu tố tất yếu khách quan, nhưng qua quãng thời gian dài được vun đắp và bổ sung bằng các môn khoa học thực nghiệm của tự nhiên, đã đạt được độ hoàn chỉnh và chính xác nhất định. Cho đến nay, thuyết tiến hóa hiện đại-với tiền đề là thuyết tiến hóa cổ điển Darwin, là một trong những luận thuyết khoa học đồ sộ và mạnh mẽ nhất, phổ quát nhất, và không kém phần phổ biến với giới sinh học nói riêng và học thuật nói chung. Tuy vậy, cũng như đối với chủ nghĩa Marx Ănghen, học thuyết này cũng bị xuyên tạc một cách bỉ ổi và không thương tiếc bởi bè lũ ngụy khoa học. 
Hãy cùng trích dẫn lời của Theodosius Dobzansky, một trong số những người sáng lập thuyết tiến hóa tổng hợp hiện đại, "Không có cái gì trong sinh học có ý nghĩa ngoại trừ nó được xem xét dưới ánh sáng của sự tiến hóa" Để hiểu được tính đúng đắn trong lời khẳng định của Dobzansky, ta sẽ phải cùng tìm hiểu đối tượng chính trong lời khẳng định ấy.


Thuyết tiến hóa hiện đại, gồm những gì ?


Trước khi bắt đầu đào sâu vào luận thuyết khoa học đồ sộ này, ta phải hiểu trước tiên, bản thân thuyết tiến hóa hiện đại là một luận thuyết khoa học tổng hợp đã được hoàn chỉnh qua thời gian, thế nên tất cả các ngành khoa học cấu thành nên học thuyết này và tất cả những kiến thức liên quan, đều trong mối quan hệ biện chứng hữu cơ sâu sắc và không thể tách rời. Để nhằm mục đích trình bày sao cho dễ hiểu và phác thảo nên một bức tranh toàn cảnh về vấn đề, và để nhằm sau khi đóng quyển sách này lại, sẽ không còn xuất hiện thêm bất cứ một kẻ không mời nào, có thể vô tri đến nỗi cứ lập đi lập lại các luận điểm cũ rích và khai thác một cách hèn nhát những điểm yếu cố hữu trong thuyết tiến hóa cổ điển, từ đó quy chụp một cách vội vàng lên hệ thống các lý thuyết tiến hóa hóa hiện đại và làm mài mòn đi tính sắc bén của chúng, tất cả hệ thống các lý thuyết của thuyết tiến hóa hiện đại, cũng như mọi dẫn chứng khoa học thực nghiệm liên quan, đều sẽ được hệ thống hóa và trình bày theo trình tự quy mô tổ chức sống- Bắt đầu từ những phân tử sống hữu cơ đầu tiên, và lịch sử quá trình vận động tích lũy về lượng của chúng, đến các tổ chức sống hoàn chỉnh hơn: Tế bào-cá thể-quần thể-loài-vvv.


1/Phần đầu- qua lăng kính sinh học phân tử


Sự sống bắt đầu như thế nào ? Thế nào mà một vật mới được coi là “sống” ? Hiện tượng mà chúng ta gọi là sự sống, dù cho diễn giải theo phương pháp luận triết học hay lập luận và dẫn chứng khoa học đi chăng nữa, đều không thể giải thích chỉ bằng một vài dòng chữ. Đối với các triết gia duy tâm và những nhà thần học siêu hình, sự sống không chỉ đơn thuần là sự sống, hay nói đúng hơn thì họ không chỉ coi sự sống là một hình thái vận động của vật chất[1]. Quả thật là cái phong phú trong tâm trí mê sản của các nhà duy tâm và cái phong phú ẩn bên trong sự sống đều muôn màu muôn vẻ. Nhưng rõ ràng một bên là cái sặc sỡ của những màn tô son, trác phấn và rắc nước thánh, bên còn lại là cái biện chứng khách quan vô tận của tự nhiên, thứ vốn chắc chắn không phải là những lời sấm truyền được phán ra trong những thời khắc nửa tỉnh nửa say. Bằng trí tưởng tượng phong phú vốn có, các nhà học giả duy tâm đã hiên ngang áp đặt lên sự sống tội nghiệp, thứ chỉ đang cố gắng để duy trì hình thái vận động của chính nó (xu hướng đó chính là một hệ quả khách quan của quá trình tổ chức về chất và tích lũy về lượng) một ý chí, một mục tiêu và từ đó, không bằng cách này thì cách khác, đã thổi hồn vào sự sống, đã tách nó ra làm 2 phần riêng biệt.


Ta hãy bắt đầu bằng việc đem Sinh lực luận-một trong những minh chứng rõ nét nhất cho sự ngông cuồng không giới hạn được kết tinh ra từ tâm trí mê sản của các nhà duy tâm- ra mổ xẻ. Sinh lực luận, quan niệm rằng nguồn lực sự sống, thứ không nằm trong thẩm quyền của cái biện chứng khách quan của tự nhiên, là một ân điển do chúa trời ban xuống khu vườn nhỏ của ngài. Học thuyết này cho rằng các hợp chất sống-theo cách nói hiện nay là chất hữu cơ-không thể nào được tổng hợp từ các chất vô cơ đơn thuần mà bắt buộc phải thông qua các sinh vật khác. 


Sinh lực luận - nếu ta lột trần cái vỏ sấm truyền của nó, thì vấn đề chỉ đơn thuần là dùng một từ ngữ khác mang tính ma mị và thần bí hơn của “sự sống”. Các nhà duy tâm và những tín đồ ngoan đạo không chấp nhận cái khái niệm “sự sống” tầm thường, nên bằng một niềm tin bất biến và vĩnh hằng, họ nỗ lực thay thế “sự sống” bằng một danh từ mỹ miều hơn - “sinh lực”, và lẽ đương nhiên là điều đó không giúp họ tiến xa thêm một bước nào trong việc giải thích cội nguồn của con người. Họ hứa hẹn sẽ khai sáng và đem lại trí tuệ cho quần chúng, nhưng thay vào đó lại dẫn dắt quần chúng vào cái bóng tối đui mù, và bỏ mặt quần chúng loay hoay ở cái xó ấy. 


Thế thì cứ giả là thứ “sinh lực” đó có thật, vậy thì thứ sinh lực ấy sản sinh ra từ đâu, khi nào. Nó nảy nở và suy tàn ra sao, hay là vĩnh viễn bất biến? Về mặt này thì các nhà duy tâm lại vô cùng ái ngại khi bị sờ gáy. Họ lúng túng với những quan điểm siêu hình mà họ đã tự lấy ra để trói tay chính mình. Đối với họ, một quy lực rất ư là đơn giản - sự sống là một dạng vận động cao của vật chất, là kết quả của quá trình tích lũy, phát triển về lượng của các hợp chất hóa học, đến một ngưỡng nhất định thì mới trở thành sự sống, quy luật đơn giản như thế thật khó để họ chấp nhận làm sao.


Đáng tiếc thay, nền tảng luận cứ cho thuyết sức sống đã bị chôn vùi bởi sự phát triển của những kĩ thuật mới và tiên tiến, thứ cho phép các nhà khoa học tiến hành những thí nghiệm mà trước đây họ chỉ có thể đoán mò theo kiểu “thầy bói xem voi”. Năm 1828, Fredrich Wolhler, một nhà hóa học người Đức- bằng những phương pháp rất đậm chất Đức- trộn lẫn mọi thứ lại với nhau- đã lần đầu tổng hợp thành công Urê [2], hợp chất hữu cơ có trong nước tiểu động vật từ ion amonium(NH4+) và ion cyanate(CHO-). Tuy đã mơ hồ cảm nhận được sự rung chấn và diệt vong đang đến dưới chân mình, những tín đồ của Sinh lực luận vẫn sẽ tiếp tục sống khỏe để tiếp tục huênh hoang về tình yêu của chúa trong vài thập kỷ nữa, cho đến khi các chất hữu cơ phức tạp hơn được tổng hợp bởi sự kiên trì và chịu khó của các nhà hóa học.


Năm 1953,  Stanley Miller đã xây dựng thành công một hệ thống kín tái tạo những điều kiện nguyên thủy tồn tại ở Trái Đất thuở sơ khai. Hệ thống trên của ông gồm :
1. Hỗn hợp dung dịch dung môi với thành phần tương tự như thành phần nước biển ở các đại dương thuở sơ khai. Nước “biển” trong bình này được nung nóng và bốc hơi vào “khí quyển”
2. “Khí quyển” chứa hỗn hợp khí H2,CH4,NH3, hơi nước, với các tia lửa điện với điện áp cao được bật tắt liên tục giống như những tia chớp, mô phỏng lại bầu khí quyển của trái đất sơ khai




Trong lúc chờ cho thí nghiệm tiến hành, ta hãy cùng giết thời gian bằng một vài câu hỏi đơn giản. Dựa vào bằng chứng thực nghiệm nào mà Miller lại có thể thiết kế nên một hệ kín mô phỏng các điều kiện sơ khai của Trái Đất ? Nhiều bằng chứng khoa học trên thực địa đã cho thấy được rằng bầu khí quyển đầu tiên của trái đất, do hệ quả của những vụ phun trào núi lửa và vận động địa chất- vốn là một hiện tượng không hiếm gặp và xảy ra liên miên tại thời điểm đó- dày đặc hơi nước cùng các hợp chất khác nhau được tống lên từ lớp địa chất thông qua phun trào núi lửa như nitrogen và các oxit của nó, CO2, CH4,….[3] Khi bề mặt trái đất nguội dần, hơi nước-đem theo các hợp chất xung quanh-ngưng tụ lại thành các đại dương mênh mông và đậm đặc điện tích. Môi trường đậm đặc điện tích trên đã nhanh chóng đưa các nguyên tố phi kim vào trạng thái kích thích, từ đó hình thành các liên kết hóa học và bắt đầu quá trình tích lũy về lượng để tạo ra các hợp chất phức tạp hơn, trong đó có những phân tử sống đầu tiên- còn được gọi là các hợp chất và phân tử hữu cơ đơn giản. Các phân tử hữu cơ này, nhờ tính phân cực của chúng (Do sự chênh lệch trong độ âm điện của các nguyên tố cấu thành phân tử) lại tiếp tục có xu hướng gắn kết với nhau và từ đó tiếp tục hình thành các phân tử hữu cơ có cấu trúc và tính chất hóa học phức tạp hơn nữa. Sự tích lũy về lượng này sẽ dẫn đến sự biến đổi về tính chất( nhưng vẫn trong khuôn khổ các quy luật khách quan của tự nhiên) dẫn đến việc hình thành những tổ chức sống nguyên sơ đầu tiên. Sẽ thật thiếu sót, nếu ta chỉ nói về phương thức vận động và quá độ của một sự vật, hiện tượng thành các hình thái khác với ban đầu (Ở đây là các phân tử hữu cơ sơ khai) mà không nói đến xu hướng biến đổi của sự vật, hiện tượng ấy. Ta bắt đầu bằng việc nhắc lại kiến thức và xem xét trạng thái ban đầu và nguyên thủy của sự vật hiện tượng, cùng với các giai đoạn khác nhau trong quá trình vận động của sự vật hiện tượng mà ta đang xét: Các nguyên tử phi kim và kim loại trong trạng thái cân bằng về điện và không bị kích thích. Các nguyên tử trung hòa này, bởi vì do ở trong môi trường là một dung môi dẫn điện với mật độ điện tích cao, nhanh chóng trở nên kích thích và thường có xu hướng liên kết với nhau để trung hòa sự kích thích ấy. Các phân tử được hình thành do sự liên kết giữa các nguyên tử kim loại và phi kim lại có tính phân cực khiến chúng tiếp tục có xu hướng liên kết với nhau và từ đó hình thành nên các phân tử có phân tử khối lớn hơn và tính chất phức tạp hơn. Trong trường hợp mà ta xem xét này, ta có thể nói rằng, ở giai đoạn ban đầu của quá trình vận động nguyên tử trung hòa đã phủ định chính nó, trở thành các nguyên tử trong trạng thái kích thích. Và các nguyên tử này lại tiếp tục phủ định chính bản thân chúng và trở thành các hợp chất đơn giản, vô cơ lẫn hữu cơ, và sẽ tiếp tục vòng lập này tới vô tận, dù là sẽ ở một quy mô và cấp độ khác. Vòng lập vô tận trên”Phủ định của phủ định” chính là xu hướng vận động của vật chất trong thế giới quan của chủ nghĩa Mác Lênin và là một trong ba trụ cột của phép biện chứng duy vật. Quay trở về với thí nghiệm trên của Miller, ta sẽ có kết quả như sau: Ta sẽ thu được các phân tử hữu cơ đủ thể loại, từ formaldehyde (CH2O), hydrogen cyanide (HCN) cho đến các phân tử phức tạp hơn và luôn góp mặt trong mọi tổ chức sống như các amino acid, hydrocacbon và các acid nucleotide. Kết quả của thí nghiệm này hoàn toàn phù hợp với quan điểm biện chứng, là vật chất luôn luôn vận động, theo cách này hay cách khác. Từ phân tích dẫn chứng là kết quả thí nghiệm trên, ta có thể khẳng định là nguồn gốc về sự phát sinh sự sống trên trái đất là do các yếu tố tự nhiên khách quan (Nếu trình bày theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì các yếu tố tự nhiên khách quan kia bao gồm các yêu tố mâu thuẫn nội tại và ngoại tại ở sự vật), và lịch sử quá trình phát sinh và phát triển của sự sống trên trái đất chính là lịch sử của quá trình tích lũy về lượng và biến đổi về chất; đồng thời xu hướng vận động của quá trình này là xu hướng “Phủ định của phủ định”. Để hình dung dễ hiểu, nếu ta coi toàn bộ quá trình ấy là sự chuyển động của bánh xe đạp, thì bản thân cái bánh xe đạp đó phải trải qua quá trình tích lũy về lượng và biến đổi về chất để có thể chuyển động. Còn lực đạp để khiến bánh xe chuyển động ấy chính là các mâu thuẫn nội tại và ngoại tại ở sự vật, còn hướng đạp nơi cái bánh lăn liên tục xoay vòng chính là quy luật “phủ định của phủ định của phủ định”.

 

Kết luận: Trong một môi trường phức tạp và đầy biến động như môi trường sơ khai trên trái đất, và với việc các điều kiện sống đã được tích lũy đầy đủ, sự sống được hình thành như một hệ quả tất yếu của sự vận động khách quan của tự nhiên, chứ không phải là thành quả của một suy nghĩ nhất thời của một thế lực thần bí và quyền lực nào đó mà các nhà duy tâm luôn rao giảng cho quần chúng một cách chắc nịt.

 

Thí nghiệm của Miller cùng với các bằng chứng thực nghiệm cấu thành khác đã hoàn toàn chôn vùi sinh lực luận và các tín đồ của nó vào sự lãng quên bên trong dòng chảy bất tận của thời gian. Với việc những cơ sở lí luận cho thuyết cơ giới-với quan điểm hoàn toàn phù hợp và đồng nhất với quan điểm duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác- được thiết lập, đã kéo tấm màn kết thúc cho một đêm trường trung cổ tăm tối, một thời đại nơi mà quyền thống trị nằm trong tay những kẻ duy tâm chủ nghĩa đã rêu rao cho các con chiên ngoan đạo của mình và lặp đi lặp lại về cái bài ca thần thánh tuyệt đối hoang tưởng của chúng, mở ra một thời đại mới, nơi khoa học không còn bị trói buộc trong cái hạn hẹp của thần học, và ý thức con người được soi đường dưới ánh sáng của chủ nghĩa duy vật biện chứng.

 

 

 

 

Chú thích

[1]: "Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan, duy vật là cho rằng thực tại khách quan, duy vật là cho con người trong cảm giác, duy vật là cho cảm giác của chúng ta phản ánh lại, chép lại, chụp lại, phản ánh lại tồn tại khách quan, cảm giác." — V.I. Lênin, "Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán"

[2]:Early German Physician First To Synthesize Urea  Marc A. et al. Mayo Clinic Proceedings, Volume 60, Issues 10, 662

[3]: Earth earliest atmospheres - Cold Spring Habor Labortary Press


Tài liệu tham khảo

1. https://ntrs.nasa.gov/api/citations/20050139759/downloads/20050139759.pdf
2. https://pmc.ncbi.nlm.nih.gov/articles/PMC4089479/pdf/jove-83-51039.pdf




Share:

Lời chào đồng chí

Hình bóng của chúng tôi khi lướt qua Lenin chỉ như những con người xa lạ, hâm mộ Người, tôn trọng Người. Đi lướt qua Người và chìm vào quên lãng... Đọc tiếp

Cách mạng tháng Tám
Cách mạng tháng Tám

CHUYÊN SAN THÉP ĐỎ