I. Khái luận về sở hữu trí tuệ
Trong đời sống, có rất nhiều thành quả được sinh ra từ trí tuệ, nhưng không phải thành quả nào cũng được bảo vệ bởi quyền sở hữu trí tuệ. Đối tượng bảo vệ của Quyền sở hữu trí tuệ không phải là bản thân “ý tưởng” hay “phương pháp” cụ thể, mà là cách thức và quá trình hình thành, thực hiện nên phương pháp đó. Ví dụ, bản thân “phương pháp tưới tiêu hiệu quả” không phải là đối tượng mà quyền sở hữu trí tuệ thật sự hướng tới, mà là lộ trình thực hành, phương pháp chăm bón, quan sát biểu hiện cây trồng,... Những kiến thức này được đúc kết qua: i. Trực tiếp từ kinh nghiệm lao động; ii. Gián tiếp qua nghiên cứu sách vở. Mà kiến thức từ sách vở suy cho cùng cũng là từ kinh nghiệm trực tiếp mà đúc kết lại. Vậy có thể nói, những “phương pháp” ấy là sản phẩm của lao động xã hội hóa.
Quyền sở hữu trí tuệ được định nghĩa là tập hợp các quyền đối với tài sản vô hình là thành quả lao động hay uy tín kinh doanh của chủ thể, được pháp luật bảo hộ. Quyền sở hữu bao gồm: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu.
Vấn đề là, không phải lúc nào chủ sở hữu của đối tượng sở hữu trí tuệ cũng là tác giả của nó. Chẳng hạn như người A sáng tạo nên một sáng chế theo nhiệm vụ từ công ty B giao cho theo hợp đồng và đầu tư vốn liếng vào, thì đương nhiên quyền sở hữu thành quả sáng tạo sẽ thuộc về công ty B, người A chỉ có quyền nhân thân đối với “đứa con” của mình chứ không có quyền tài sản. Từ đây nổi cộm lên hai quan điểm đối lập từ giới kinh tế học tư sản và phía những người Mác-xít. Một bên cho đây là động lực cạnh tranh để xã hội phát triển, một bên cho đây là một dạng tư hữu hóa lao động xã hội nhằm duy trì địa vị có lợi cho giai cấp thống trị. Vậy cần nhìn nhận ra sao?
II. Cơ sở triết học
Triết học về sở hữu trí tuệ bắt nguồn từ triết học về quyền sở hữu. Ở các nước tư bản chủ nghĩa, có ba cơ sở triết học hình thành nên pháp luật bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ: i. Triết học về giá trị lao động (John Locke); ii. Triết học về quyền tự do sáng tạo (Emmanual Kant và George Hegel); iii. Triết học về phương tiện (Jeremy Bentham). Theo triết học Locke, bất cứ tài sản gì là thành quả lao động của người nào thì người đó làm chủ sở hữu. Người lao động có thể cho, bán, trao đổi tài sản của mình (bất kể lao động chân tay hay lao động trí óc). Theo triết học Kant và Hegel, con người được tự do về tinh thần và ý chí. Để thực hiện quyền tự do ấy, con người phải có quyền sở hữu. Quyền sở hữu là công cụ để đạt tới tự do. Theo triết học Bentham, quyền sở hữu là công cụ, làm đòn bẩy để nhà nước khuyến khích các thành viên trong xã hội lao động, nhằm đạt được phúc lợi xã hội.
Các thuyết trên chỉ nêu được khía cạnh tích cực của quyền sở hữu trí tuệ. Triết học Marx-Lenin cũng công nhận cơ sở của quyền sở hữu là lao động. Tuy nhiên, Marx nhìn ra bản chất giai cấp trong khái niệm sở hữu. Giai cấp nào sở hữu nhiều của cải hơn thì sẽ sở hữu nhiều sức mạnh hơn trong xã hội, từ đó trở thành giai cấp thống trị. Đối với giai cấp bị trị, những khái niệm như “tự do”, “bình đẳng” trở nên không mấy ý nghĩa khi họ không có quyền sở hữu, từ đó không có quyền tự chủ, tự quyết thực chất. Đó là hình ảnh đối lập giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản trong xã hội. Sự đối lập này là nguồn cơn của mâu thuẫn giai cấp.
Từ đây ta còn thấy được khía cạnh tiêu cực của quyền sở hữu trí tuệ, đó là “việc tập trung quá nhiều tài sản vào tay thiểu số có quyền lực, dẫn tới việc các thiểu số này có khả năng lạm dụng quyền sở hữu. Một công ty nếu tập trung được khối lượng tư liệu sản xuất khổng lồ thì sẽ trở nên độc quyền”. Độc quyền sẽ dẫn tới mưu toan nâng giá sản phẩm phi mã so với giá trị thực chất và kiềm hãm sự phát triển của các công ty khác từ chỗ nghèo nàn phương pháp sản xuất.
III. Những mâu thuẫn của các cơ sở triết học
Thứ nhất, thuyết giá trị lao động của Locke và Hegel cổ vũ việc người lao động được hưởng lợi từ những gì mà họ làm ra. Nhưng quyền sở hữu trí tuệ không phải bao giờ cũng phục vụ cho bản thân người lao động. “Pháp luật về sở hữu trí tuệ quy định sản phẩm lao động trí óc được tạo ra theo quy định của hợp đồng lao động, hợp đồng dịch vụ hay theo nhiệm vụ thì quyền sở hữu trí tuệ không phải thuộc về người trực tiếp sáng tạo, mà thuộc về người sử dụng lao động, người thuê”. Chỉ một phần nhỏ doanh thu từ đĩa nhạc đến được tay ca sĩ, chỉ một phần nhỏ doanh thu từ sáng chế đến được tay người kỹ sư.
Thứ hai, những học giả cổ vũ cho thuyết này còn đi xa hơn, khi họ lập luận rằng: “Bản thân người sử dụng lao động, cụ thể hơn là người chủ tư sản, đã bỏ ra tiền bạc đầu tư cơ sở vật chất, máy móc, thiết bị,... để phục vụ cho công tác nghiên cứu của nhà khoa học, nên bản thân họ cũng đóng góp vai trò là “một người lao động”. Họ có quyền sở hữu chính đáng đối với những thành quả sáng tạo ấy và được hưởng phần lớn giá trị thặng dư là hợp lý”. Thế nhưng tại sao người lao động lại phải bị lệ thuộc quá trình sáng tạo của mình vào giới chủ? Vì bản thân người lao động, tác giả không có đủ cơ sở vật chất, tư liệu sản xuất phục vụ cho công tác nghiên cứu. Mặc khác, họ không thể theo đuổi các vụ kiện và các chi phí cho việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ vì tài chính eo hẹp.
Vấn đề nằm ở quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất TBCN đã cột chặt người lao động vào giai cấp tư sản. Một lẽ đơn giản là vì những người vô sản không có tư liệu sản xuất. Việc nhận lại lợi ích từ sự đầu tư tiền của, vật chất là hợp lý, nhưng sự đầu tư ấy không nhất thiết phải từ những người không lao động dưới hình thức “ban cho”, “tạo điều kiện” cho những người lao động. Một nhà khoa học giỏi đặt trong quan hệ sản xuất XHCN thì sẽ được xã hội cung cấp cho những vật chất và tư liệu sản xuất mà anh ta cần đề phục vụ cho công tác nghiên cứu. Năng lực của anh tới đâu, thì lượng tư liệu sản xuất dồi dào và hiện đại đến đó. Đó là ý nghĩa thực chất của câu nói “Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu” của Marx mà giới kinh tế học tư sản thường xuyên tạc. Hay nói đúng hơn là “Xét theo từng năng lực từng người, ban theo từng nhu cầu của anh ta” (theo nguyên văn từ câu “Jeder nach seinen Fähigkeiten, jedem nach seinen Bedürfnissen”). Và lẽ dĩ nhiên, thành quả khoa học ấy được hình thành trên cơ sở công hữu về tư liệu sản xuất, thì sẽ quay về phục vụ cho lợi ích chung của xã hội.
Thứ ba, quyền sở hữu trí tuệ không phải lúc nào cũng là công cụ thúc đẩy xã hội tiến lên như Bentham nhận định. Quyền sở hữu trí tuệ bị lạm dụng sẽ sinh ra độc quyền, dẫn đến tăng giá cả sinh hoạt, kìm hãm sự phát triển của xã hội.
Quyền sở hữu trí tuệ về lâu dài cũng sẽ ngày càng tích lũy tư bản vào trong tay thiểu số và xé toạc ranh giới giàu nghèo ra. Một vài người trong tầng lớp tư sản vì bị ảnh hưởng từ độc quyền và cạnh tranh cũng sẽ đi đến phá sản mà rơi vào hàng ngũ của giai cấp vô sản, thị trường hàng hóa thì ngày càng khan hiếm mà thị trường lao động cạnh tranh giữa những người vô sản ngày càng nhiều. Từ những lẽ đó, mâu thuẫn xã hội sẽ tiềm tàng nguy cơ vỡ trận.
Thế nhưng cần đặt ngược lại vấn đề. Khi xét đến khả năng quốc hữu hóa nền kinh tế của một xã hội cụ thể, cần xem xét xã hội ấy đã đáp ứng đủ tích lũy tư bản nhà nước và trình độ sản xuất hay chưa. Nếu chưa, thì việc áp dụng ngay tức khắc nền kinh tế kế hoạch chỉ vì muốn chữa ngay những cái khiếm khuyết của kinh tế thị trường là tả khuynh nóng vội. Trong thời kỳ quá độ lâu dài, kinh tế thị trường là một giai đoạn không thể tránh khỏi đối với con đường quá độ gián tiếp. Vì vậy nên phương án phù hợp trước mắt là làm sao để điều chỉnh cơ chế phân phối theo lao động trong quan hệ sản xuất, sao cho khai thác hiệu quả quyền sở hữu trí tuệ và hạn chế xé toạc ranh giới bất bình đẳng xã hội ra thêm. Và quan trọng nhất phải xác định được, mục tiêu cuối cùng của những chính sách ấy là gì.
Kết luận
Sở hữu trí tuệ có thể làm phát sinh độc quyền và các hệ lụy xã hội, tuy nhiên nó có thể là động lực để phát huy tính năng động và sáng tạo, hai động lực tiên quyết của nền kinh tế thị trường. Việc khai thác hiệu quả quyền sở hữu trí tuệ và triệt tiêu dần những ung nhọt khiếm khuyết của nó là một quá trình bền bỉ đi đôi với quá trình phát triển lực lượng sản xuất và cải tạo từng bước quan hệ sản xuất theo hướng XHCN. Không nên coi nó là chiếc chìa khóa vạn năng vĩnh cửu mà rơi vào hữu khuynh, càng không nên phủ nhận sạch vai trò của nó mà rơi vào tả khuynh./ .
(Bài viết lấy ý tưởng từ bài giảng về Luật Sở hữu trí tuệ của TS. Lê Nết)
Tài liệu tham khảo
1. Butler, B.E. (2021) Internet Encyclopedia of Philosophy
2. Schofield, P. S. and Hanris, J. (1998) The Collected Works of Jeremy Bentham - Legislator of the World
3. Duquete, D. (1999) George Wilhelm Friedrich Hegel - Social and Political Thought. Internet Encyclopedia of Philosophy
4. K.Marx. 1875. Kritik des Gothaer Programms