Thứ Hai, 8 tháng 9, 2025

LỊCH SỬ KINH TẾ QUỐC DÂN Ở VIỆT NAM - TRƯƠNG DOÃN



 1. Giai đoạn 1946–1954


1.1) Bối cảnh

Vào tháng tám năm 1945, khi Nhật Bản suy yếu trầm trọng trong Thế chiến thứ hai, Đảng ta đã chớp thời cơ tiến hành Cách mạng Tháng Tám, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hòa bình diễn ra ngắn ngủi, thực dân Pháp trở lại xâm chiếm, âm mưu đô hộ nước ta lần thứ hai. Qua chín năm kháng chiến kiên cường, quân và dân ta đã đánh tan thực dân xâm lược. Trong thời kỳ này, nền kinh tế cách mạng đạt nhiều thành tựu quan trọng, không kém các thắng lợi quân sự. [1]


1.2) Chủ trương

Sau khi cách mạng giành thắng lợi, nền kinh tế nước ta còn lạc hậu và bị chiến tranh tàn phá, nên việc áp dụng cách mạng chuyên chính vô sản và nền kinh tế kế hoạch quốc dân ngay là không phù hợp. Do đó, Chính quyền cách mạng chủ trương:


-Về mặt trận chính trị, là Mặt trận Chuyên chính dân chủ nhân dân, nghĩa là mọi tầng lớp và giai cấp đoàn kết chống giặc ngoại xâm.


-Về mặt trận kinh tế, là nền kinh tế đa thành phần có tính tự cung tự cấp thời chiến, nghĩa là cho phép tồn tại nhiều mô hình kinh tế cùng hoạt động. [2]


1.3) Các thành phần kinh tế

-Kinh tế phong kiến: địa chủ bóc lột địa tô.

-Kinh tế quốc doanh: tư liệu sản xuất thuộc sở hữu chung của Nhà nước và nhân dân.

-Hợp tác xã cung cấp/tiêu thụ: đóng góp vốn mua bán hàng hóa.

-Kinh tế cá nhân: tự cung tự cấp, ít buôn bán.

-Kinh tế tư bản tư nhân: tư sản bóc lột thặng dư công nhân.

-Kinh tế tư bản nhà nước: nhà nước và tư sản cùng góp vốn kinh doanh. [3]


1.4) Chính sách xây dựng kinh tế

A. Sản Xuất Và Trao Đổi:

*Thứ nhất, công – tư đều lợi.

*Thứ hai, chủ – thợ đều lợi.

*Công – nông giúp nhau.

*Buôn bán hàng hóa ra ngoài. [4]


B. Phá hoại kinh tế địch

Nghĩa là thực hiện chiến tranh du kích tiêu hao, đánh phá cơ sở vận tải của địch để gây hư hại hao mòn chờ địch. Với mục đích không để chúng “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”. [5]


C. Khắc phục nạn đói

Các phong trào tiết kiệm của cải và thi đua lao động học tập được tổ chức để cải thiện đời sống và ý thức của nhân dân ta lúc đó. [6]



1.5) Sự kiện đáng lưu ý

Cuối giai đoạn kháng chiến chống Pháp, Cải Cách Ruộng Đất được tổ chức để phân phối lại ruộng đất và tái cơ cấu sản xuất. 


1.6) Kết quả

Tổng sản lượng nông nghiệp tại các vùng tự do đã giải phóng qua ba mốc thời gian:

*Năm 1946: 1.550.000 tấn. Là giai đoạn mới độc lập, Thực dân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam.


*Năm 1950: 2.414.830 tấn. Là giai đoạn sau thắng lợi Đông Khê, quân ta được viện trợ và dần đẩy lùi quân Pháp, giành thế chủ động.


*Năm 1953: 2.757.000 tấn. Là giai đoạn tiến công các vị trí để làm tiền đề cho thắng lợi Điện Biên Phủ. [7]


Qua đó, ta nhận xét chung rằng sản xuất nông nghiệp tăng rõ rệt chỉ trong vòng 8 năm, vượt tổng nền sản xuất Đông Dương thời còn thuộc Pháp. [8]


2. Giai đoạn 1955–1975


2.1) Bối cảnh

Sau chín năm kháng chiến, Hiệp định Giơ-ne-vơ vào 20/7/1954 quy định tạm thời phân ra hai vùng tập kết quân sự để thực hiện tổng tuyển cử thống nhất toàn quốc dự kiến vào năm 1956. Tuy nhiên, bọn thực dân và đế quốc tráo trở không tuân thủ mà lại lương lẹo lách luật, thực hiện cuộc trưng cầu dân ý giả dối, đã khiến cho đất nước này bị giày xéo chia cắt suốt hai mươi năm. [9]


2.2) Chủ trương

Sau khi kí kết, Đảng ta xác định:

-Củng cố chế độ chuyên chính dân chủ nhân dân, xây dựng kinh tế kế hoạch quốc dân.

-Đấu tranh chính trị thống nhất đất nước bằng tổng tuyển cử tự do, đề phòng âm mưu Đế quốc Mĩ phá hoại tổng tuyển cử. [10]


Tuy nhiên, sau khi xé bỏ Hiệp ước và có hành động khiêu khích, ta có thể xác định rằng:

-Xây dựng miền bắc hậu phương tiến lên chủ nghĩa xã hội, chi viện cho nhân dân miền nam chống Mĩ-Ngụy. [11]


2.3) Thành phần kinh tế

Các thành phần kinh tế được định hướng xây dựng bao gồm bao gồm:

-Kinh tế nhà nước

-Kinh tế tập thể

-Kinh tế hợp tác xã

-Kinh tế công – tư hợp doanh. [12]


Đối với các thành phần kinh tế cần phải được cải tạo xã hội chủ nghĩa: 

-Công-thương nghiệp tư bản chủ nghĩa

-Kinh tế cá thể/sản xuất nhỏ. [13]


2.4) Chính sách xây dựng kinh tế

Cải tạo toàn bộ tàn dư của nền chế độ kinh tế cũ đi lên nền kinh tế đi lên xã hội chủ nghĩa.


Tiến hành đặt nền móng công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Cơ giới hóa nông nghiệp hiện đại để phục vụ chi viện cho miền Nam.


2.5) Sự kiện đáng chú ý

Trong giai đoạn này, các kế hoạch 3 năm (1958–1960) và kế hoạch 5 năm (1961–1965) được thực hiện. Tuy nhiên, lại bị gián đoạn do chiến tranh đánh bom phá hoại của bọn Đế quốc Mĩ. [14]



2.6. Kết quả

Năm 1955–1960: xây dựng 97 nhà máy, sản lượng lương thực 4,5 triệu tấn.


Năm 1961–1965: công nghiệp đóng góp 93,1% tổng ngân sách, tăng trưởng 13,6%; nông nghiệp tăng trưởng 4,1%, sản lượng lương thực 5,8 triệu tấn.


Năm 1965–1975: xây dựng 1.200 nhà máy, sản lượng lương thực 5,5 triệu tấn; 88,8% hộ tham gia Hợp tác xã [15]


3. Giai đoạn 1976–1986


3.1) Bối cảnh

Sau thống nhất đất nước, miền Bắc đã xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cơ bản, trong khi miền Nam còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra, phong trào xã hội chủ nghĩa rạn nứt gây ra khó khăn cho công cuộc xây dựng Chủ nghĩa Xã hội ở nước ta, như đám tập đoàn phản động Đặng Tiểu Bình và bè phái diệt chủng của tên Pol Pot.


3.2) Chủ trương

Đại hội IV (1976): “Nắm vững chuyên chính vô sản, đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, văn hóa và con người mới xã hội chủ nghĩa” [16]


3.3) Thành phần kinh tế

Sau giải phóng, thành phần kinh tế có khác nhau rõ rệt:

*Ở Miền Bắc bao gồm: 

-Kinh tế Nhà nước

-Kinh tế tập thể-hợp tác xã

-Kinh tế công – tư hợp doanh. [17]


*Ở Miền Nam thì còn kinh tế tư bản tư nhân, công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa, kinh tế cá thể sản xuất nhỏ, cũng như thương gia ngoại quốc đầu cơ kinh tế cần phải được cải tạo. [18]


3.4) Chính sách

Đó là cải tạo tàn dư từ chế độ kinh tế tư hữu còn tại miền nam, để tiến lên công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa bằng bệ đỡ từ nông nghiệp cơ giới và công nghiệp nhẹ hiện đại.


3.5) Sự kiện đáng chú ý

Các kế hoạch 5 năm được thực hiện: 1976–1980, 1981–1985. [19]


3.6) Kết quả

Ban đầu, tất cả đều cùng mục tiêu xây dựng kinh tế kế hoạch quốc dân. Tuy nhiên vì cấm vận bao vây kinh tế, chiến tranh quấy phá khắp nơi. Nên kinh tế thay vì là kinh tế kế hoạch quốc dân thì phải khẩn trương áp dụng kinh tế bao cấp, nghĩa là kinh tế tự cung tự cấp được nhà nước kiểm soát toàn phần trọng thời kì kinh tế khủng hoảng. Cũng chính vì thế, nên xuất hiện nhiều tiêu cực trong thời kì này, ta có thể phân tích:


A.Những vấn đề còn tồn đọng

*Về phần sai lầm khách quan: Đó là sự phân rã trong phong trào cộng sản quốc tế, sự bao vây cấm vận và chiến tranh. [20]


*Về phần sai lầm chủ quan: Các chính sách “đánh tư sản” lần 1 vào năm 1975 và lần 2 vào năm 1978 đặt ra mục tiêu cải tạo và năng suất quá nóng vội và chủ quan gây ra khủng hoảng kinh tế lớn cho miền nam; Về hợp tác xã nông nghiệp, thay vì chia ruộng hoặc công hữu thì ruộng đất và máy cày lại do nhà nước quản lí, xong tình trạng quan liêu cũng sinh ra thêm vấn đề là người nông dân không được trả lương tương xứng với mình. Nhìn chung, đây là hệ quả của việc ảnh hưởng từ tư duy quản lí kinh tế của Bơ-réc-nhép đã lún sâu vào lí luận kinh tế Mác-xít thời điểm đó thay vì vận dụng linh hoạt và học tập những kinh nghiệm chỉ đạo kinh tế thời Xít-ta-lin. [21]


B.Thắng lợi

*Về mặt trận cải tạo kinh tế: cải tạo được đa số các cơ sở công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa, nhiều ngành cá thể sản xuất nhỏ chuyển sang sản xuất chung. Quốc hữu hoá tài sản của công thương nghiệp tư bản mại bản, là thành công chiến lược giúp nền sản xuất gia dụng đất nước không phụ thuộc nước ngoài. 

*Về vận tải và sản xuất: Thành công khôi phục cơ sản vận tải, sản lượng công nghiệp ta được biết đạt giá trị 101,3 tỉ đồng, sản lượng nông nghiệp 13–16 triệu tấn. [22]


4. Giai đoạn 1986–2006


4.1) Bối cảnh

Đại hội VI (1986) diễn ra trong bối cảnh Việt Nam vẫn còn hứng chịu nặng nề từ hậu quả của cấm vận kinh tế. Song, tình hình quốc tế cũng dần ổn định hơn khi Việt Nam hoàn thành việc rút quân khỏi Campuchia năm 1989 và lần lượt bình thường hóa quan hệ Trung Quốc năm 1991, Mỹ năm 1995.



4.2) Chủ trương

Ngay sau giải phóng, ý tưởng về Đổi mới ban đầu là do Tổng Bí Thư Lê Duẩn soạn luận cương, tuy nhiên bị Quốc hội khước từ nên ý tưởng của ông mãi chỉ nằm lại ở trên giấy. Mặc dù trong một số kì họp, ý tưởng về Đổi mới vẫn được nhắc vẫn chưa lần nào được đưa vào chính thức. Cho đến tận sau này, đồng chí Trường Chinh đã viết các bài viết lên ý tưởng cụ thể về Đổi mới. Và nó đã được Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh thực hiện. Chính sách Đổi Mới được Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua, là mô hình chiến lược tạm thời nhằm phục hồi kinh tế và phát triển lực lượng sản xuất thông qua cơ chế kinh tế nhiều thành phần. Cho phép tồn tại và phát triển kinh tế tư nhân và doanh nghiệp FDI trong sự quản lý định hướng của Nhà nước. Mục đích cuối cùng là tích lũy để vọt về chất, nghĩa là đạt đủ điều kiện vật chất để làm đà xây dựng chủ nghĩa xã hội. [23]


4.3) Thành phần kinh tế

Các thành phần chính từ thời kỳ Đổi Mới:


*Kinh tế nhà nước: trọng tâm điều tiết nền kinh tế, chiếm 30–35%.


*Kinh tế tập thể: vai trò hỗ trợ và tự quản, chiếm 5–10%.


*Kinh tế tư nhân: chiếm 40–45%, phát triển trong giai đoạn tư bản chủ nghĩa tạm thời.


*Kinh tế FDI (vốn nước ngoài): chủ yếu trong công nghiệp chế biến, chiếm 20–25%. [24]


4.4) Chính sách xây dựng kinh tế

Thứ nhất, nền kinh tế phải có sự điều tiết của nhà nước để đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa.


Thứ hai, hỗ trợ kinh tế tư nhân phát triển trong phạm vi hợp lý, phải đề phòng nguy cơ đầu cơ thao túng kinh tế.


Thứ ba, hỗ trợ kinh tế tập thể như hợp tác xã hay các tổ sản xuất chung làm nền tảng cho kinh tế quốc dân kế hoạch mai sau.


Thứ tư, cần phải có khung pháp chế chặt chẽ về quản lí kinh tế, trong đó có:

-Luật doanh nghiệp nhà nước (1995, 2003, 2014, 2020)

-Luật hợp tác xã (1996, 2003, 2012, 2020)

-Luật doanh nghiệp tư nhân (1990, 1999, 2005, 2020)

-Luật FDI (1987, 1996, 2005, 2014, 2020)

-Luật lao động (1994, 2002, 2012, 2019)

-Luật công đoàn (1990, 2006, 2012, 2019).


Thứ năm, chính sách nông nghiệp khoán hộ được áp dụng, có nghĩa là chính quyền sẽ giao cho mỗi hộ nông dân được cấp phép quyền sở hữu một thửa ruộng và sử dụng công cụ lao động nhà nước giao cho để làm, sau khi hoàn thành nhiệm vụ thì sẽ được nhà nước trả công. [25]


4.5) Một số sự kiện đáng chú ý

*Năm 1995 tiến hành thử nghiệm và đến năm 2016 chính thức tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước; Và Việt Nam gia nhập ASEAN.

*Năm 2007, Việt Nam gia nhập WTO.

*Năm 2010, Việt Nam hưởng ứng triển khai chương trình chuyển đổi số và năng lượng xanh.


4.6) Kết quả

A.Những Hạn chế:

-Chưa có cơ sở pháp lí chặt chẽ để chống chủ nghĩa tư bản thân hữu, lạm quyền và quan liêu kinh tế giữa Bộ máy chính quyền với doanh nghiệp.

-Cần tiếp tục tái cấu trúc Quốc Doanh và phát triển kinh tế tập thể để cạnh tranh với doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp tư nhân có vốn đầu tư nước ngoài (FDI). Để cuối cùng là hướng tới xã hội hóa tư liệu sản xuất.


B.Thành tựu:

-Cơ sở lý luận thực tiễn về quy luật khách quan của kinh tế được quán triệt, điều này là một lợi thế trên tiến trình xây dựng nền tảng cho quá độ xã hội chủ nghĩa.

-Kinh tế phục hồi hoàn toàn, trình độ sản xuất tăng cao, các ngành đầu tàu vẫn tự chủ. Đây sẽ là nền tảng cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.


5. Kết luận

Trên tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Việt Nam đã trải qua nhiều gian nan, nhưng nhờ nắm vững chủ nghĩa Mác – Lênin và vận dụng linh hoạt các chính sách kinh tế, đất nước đã đạt được những thành tựu quan trọng về khôi phục và phát triển sản xuất, từng bước hiện đại hóa kinh tế và xã hội. 


____________

Chú Thích Dẫn Chứng.

[1]: Bài Viết Của Báo Thanh Niên: https://thanhnien.hochiminhcity.gov.vn/cach-mang-thang-tam-nam-1945-su-kien-vi-dai-trong-lich-su-dan-toc-viet-nam/

[2]: Thường Thức Chính Trị - Hồ Chí Minh: https://www.dongtien.site/2025/04/thuong-thuc-chinh-tri-ho-chi-minh_13.html?m=1

[3]: Thường Thức Chính Trị - Hồ Chí Minh: https://www.dongtien.site/2025/04/thuong-thuc-chinh-tri-ho-chi-minh_13.html?m=1

[4]: https://www.dongtien.site/2025/04/thuong-thuc-chinh-tri-ho-chi-minh_13.html?m=1

[5]: https://www.quanlynhanuoc.vn/2024/01/23/mat-tran-pha-kinh-te-dich-trong-cuoc-khang-chien-toan-quoc-chong-thuc-dan-phap-1946-1954-y-nghia-lich-su-va-gia-tri-hien-thuc/

[6]: Đại Cương Lịch Sử Tập 3, trang 29 - 31.

[7]: Đại Cương Lịch Sử Tập 3, trang 62 - 66, trang 97 - 101.

[8]: https://nhandan.vn/nan-doi-nam-1945-va-su-that-lich-su-tiep-theo-va-het-post281930.html

[9]: https://baodongnai.com.vn/phapluat/202107/ai-pha-hoai-hoa-binh-ai-gay-chien-tranh-3068266/

[10]: Hội Nghị Trung Ương Đảng Lần Thứ 8 năm 1956: https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/hoi-nghi-bch-trung-uong/khoa-ii/nghi-quyet-hoi-nghi-trung-uong-thang-9-nam-1956-ve-ke-hoach-chuan-bi-dai-hoi-dang-lan-thu-iii-790

[11]: Nghị quyết Hội nghị Trung ương cục lần III năm 1965

[12],[13]: Các tư liệu văn kiện Đảng từ 1954 đến 1976

[14]: https://www.qdnd.vn/vung-buoc-duoi-quan-ky-quyet-thang/lich-su-quan-doi-nhan-dan-viet-nam/quan-va-dan-mien-bac-danh-thang-chien-tranh-pha-hoai-lan-thu-nhat-cua-de-quoc-my-1965-1968-801443

[15]: https://vanban.chinhphu.vn/giai-doan-1955-1975-xay-dung-cnxh-va-dau-tranh-thong-nhat-dat-nuoc/2-hoan-thanh-cai-tao-xa-hoi-chu-nghia-buoc-dau-phat-trien-kinh-te-va-van-hoa-dua-mien-bac-vao-th-10001575

[16]: Tư liệu văn kiện Đại Hội Đảng lần thứ 9

[17],[18]: Các tư liệu văn kiện Đảng từ 1975 đến 1986.

[19]:https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-iv/bao-cao-phuong-huong-nhiem-vu-va-muc-tieu-chu-yeu-cua-ke-hoach-5-nam-1976-1980-1511 ; https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-v/phuong-huong-nhiem-vu-va-nhung-muc-tieu-chu-yeu-ve-kinh-te-va-xa-hoi-trong-5-nam-1981-1985-va-nhung-nam-1503 

[20]: https://vjol.info.vn/index.php/sphcm/article/view/90433

[21]: https://www.chungta.com/nd/tac-pham-hoc-thuat/dang_phong_tu_duy_kinh_te_bao_cap_pha_rao.html

[22]: https://tapchinganhang.gov.vn/diem-nhan-kinh-te-viet-nam-tu-sau-cach-mang-thang-tam-nam-1945-den-nay-3117.html ; https://tapchicongthuong.vn/1976-1985--san-xuat-cong-nghiep-chia-thanh-2-giai-doan-ro-ret-110961.htm


[23]: Văn Kiện Đại Hội Đảng Lần Thứ 6.

[24]: https://thuvienphapluat.vn/hoi-dap-phap-luat/839E13E-hd-hien-nay-viet-nam-co-bao-nhieu-thanh-phan-kinh-te.html

[25]: https://vov.vn/kinh-te/tu-khoan-ho-den-nhung-doi-moi-trong-nong-nghiep-1003168.vov 



Ngoài ra, các quý độc giả nên ghé qua bài viết của blog “Lịch Sử Liên Xô: Huyền Thoại Và

 Sự Thật” có tên là “Một vài nét về công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta” (https://cccplenin.blogspot.com/p/mot-vai-net-ve-cong-cuoc-xay-dung-chu.html?m=1) như một nguồn tổng hợp tham khảo bổ ích!

Share:

Chủ Nhật, 24 tháng 8, 2025

TRIẾT HỌC VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ - HỒNG LIÊM

 


I. Khái luận về sở hữu trí tuệ


Trong đời sống, có rất nhiều thành quả được sinh ra từ trí tuệ, nhưng không phải thành quả nào cũng được bảo vệ bởi quyền sở hữu trí tuệ. Đối tượng bảo vệ của Quyền sở hữu trí tuệ không phải là bản thân “ý tưởng” hay “phương pháp” cụ thể, mà là cách thức và quá trình hình thành, thực hiện nên phương pháp đó. Ví dụ, bản thân “phương pháp tưới tiêu hiệu quả” không phải là đối tượng mà quyền sở hữu trí tuệ thật sự hướng tới, mà là lộ trình thực hành, phương pháp chăm bón, quan sát biểu hiện cây trồng,... Những kiến thức này được đúc kết qua: i. Trực tiếp từ kinh nghiệm lao động; ii. Gián tiếp qua nghiên cứu sách vở. Mà kiến thức từ sách vở suy cho cùng cũng là từ kinh nghiệm trực tiếp mà đúc kết lại. Vậy có thể nói, những “phương pháp” ấy là sản phẩm của lao động xã hội hóa.


Quyền sở hữu trí tuệ được định nghĩa là tập hợp các quyền đối với tài sản vô hình là thành quả lao động hay uy tín kinh doanh của chủ thể, được pháp luật bảo hộ. Quyền sở hữu bao gồm: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu.


Vấn đề là, không phải lúc nào chủ sở hữu của đối tượng sở hữu trí tuệ cũng là tác giả của nó. Chẳng hạn như người A sáng tạo nên một sáng chế theo nhiệm vụ từ công ty B giao cho theo hợp đồng và đầu tư vốn liếng vào, thì đương nhiên quyền sở hữu thành quả sáng tạo sẽ thuộc về công ty B, người A chỉ có quyền nhân thân đối với “đứa con” của mình chứ không có quyền tài sản. Từ đây nổi cộm lên hai quan điểm đối lập từ giới kinh tế học tư sản và phía những người Mác-xít. Một bên cho đây là động lực cạnh tranh để xã hội phát triển, một bên cho đây là một dạng tư hữu hóa lao động xã hội nhằm duy trì địa vị có lợi cho giai cấp thống trị. Vậy cần nhìn nhận ra sao?


II. Cơ sở triết học


Triết học về sở hữu trí tuệ bắt nguồn từ triết học về quyền sở hữu. Ở các nước tư bản chủ nghĩa, có ba cơ sở triết học hình thành nên pháp luật bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ: i. Triết học về giá trị lao động (John Locke); ii. Triết học về quyền tự do sáng tạo (Emmanual Kant và George Hegel); iii. Triết học về phương tiện (Jeremy Bentham). Theo triết học Locke, bất cứ tài sản gì là thành quả lao động của người nào thì người đó làm chủ sở hữu. Người lao động có thể cho, bán, trao đổi tài sản của mình (bất kể lao động chân tay hay lao động trí óc). Theo triết học Kant và Hegel, con người được tự do về tinh thần và ý chí. Để thực hiện quyền tự do ấy, con người phải có quyền sở hữu. Quyền sở hữu là công cụ để đạt tới tự do. Theo triết học Bentham, quyền sở hữu là công cụ, làm đòn bẩy để nhà nước khuyến khích các thành viên trong xã hội lao động, nhằm đạt được phúc lợi xã hội.


Các thuyết trên chỉ nêu được khía cạnh tích cực của quyền sở hữu trí tuệ. Triết học Marx-Lenin cũng công nhận cơ sở của quyền sở hữu là lao động. Tuy nhiên, Marx nhìn ra bản chất giai cấp trong khái niệm sở hữu. Giai cấp nào sở hữu nhiều của cải hơn thì sẽ sở hữu nhiều sức mạnh hơn trong xã hội, từ đó trở thành giai cấp thống trị. Đối với giai cấp bị trị, những khái niệm như “tự do”, “bình đẳng” trở nên không mấy ý nghĩa khi họ không có quyền sở hữu, từ đó không có quyền tự chủ, tự quyết thực chất. Đó là hình ảnh đối lập giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản trong xã hội. Sự đối lập này là nguồn cơn của mâu thuẫn giai cấp.


Từ đây ta còn thấy được khía cạnh tiêu cực của quyền sở hữu trí tuệ, đó là “việc tập trung quá nhiều tài sản vào tay thiểu số có quyền lực, dẫn tới việc các thiểu số này có khả năng lạm dụng quyền sở hữu. Một công ty nếu tập trung được khối lượng tư liệu sản xuất khổng lồ thì sẽ trở nên độc quyền”. Độc quyền sẽ dẫn tới mưu toan nâng giá sản phẩm phi mã so với giá trị thực chất và kiềm hãm sự phát triển của các công ty khác từ chỗ nghèo nàn phương pháp sản xuất.



III. Những mâu thuẫn của các cơ sở triết học


Thứ nhất, thuyết giá trị lao động của Locke và Hegel cổ vũ việc người lao động được hưởng lợi từ những gì mà họ làm ra. Nhưng quyền sở hữu trí tuệ không phải bao giờ cũng phục vụ cho bản thân người lao động. “Pháp luật về sở hữu trí tuệ quy định sản phẩm lao động trí óc được tạo ra theo quy định của hợp đồng lao động, hợp đồng dịch vụ hay theo nhiệm vụ thì quyền sở hữu trí tuệ không phải thuộc về người trực tiếp sáng tạo, mà thuộc về người sử dụng lao động, người thuê”. Chỉ một phần nhỏ doanh thu từ đĩa nhạc đến được tay ca sĩ, chỉ một phần nhỏ doanh thu từ sáng chế đến được tay người kỹ sư.


Thứ hai, những học giả cổ vũ cho thuyết này còn đi xa hơn, khi họ lập luận rằng: “Bản thân người sử dụng lao động, cụ thể hơn là người chủ tư sản, đã bỏ ra tiền bạc đầu tư cơ sở vật chất, máy móc, thiết bị,... để phục vụ cho công tác nghiên cứu của nhà khoa học, nên bản thân họ cũng đóng góp vai trò là “một người lao động”. Họ có quyền sở hữu chính đáng đối với những thành quả sáng tạo ấy và được hưởng phần lớn giá trị thặng dư là hợp lý”. Thế nhưng tại sao người lao động lại phải bị lệ thuộc quá trình sáng tạo của mình vào giới chủ? Vì bản thân người lao động, tác giả không có đủ cơ sở vật chất, tư liệu sản xuất phục vụ cho công tác nghiên cứu. Mặc khác, họ không thể theo đuổi các vụ kiện và các chi phí cho việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ vì tài chính eo hẹp.


Vấn đề nằm ở quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất TBCN đã cột chặt người lao động vào giai cấp tư sản. Một lẽ đơn giản là vì những người vô sản không có tư liệu sản xuất. Việc nhận lại lợi ích từ sự đầu tư tiền của, vật chất là hợp lý, nhưng sự đầu tư ấy không nhất thiết phải từ những người không lao động dưới hình thức “ban cho”, “tạo điều kiện” cho những người lao động. Một nhà khoa học giỏi đặt trong quan hệ sản xuất XHCN thì sẽ được xã hội cung cấp cho những vật chất và tư liệu sản xuất mà anh ta cần đề phục vụ cho công tác nghiên cứu. Năng lực của anh tới đâu, thì lượng tư liệu sản xuất dồi dào và hiện đại đến đó. Đó là ý nghĩa thực chất của câu nói “Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu” của Marx mà giới kinh tế học tư sản thường xuyên tạc. Hay nói đúng hơn là “Xét theo từng năng lực từng người, ban theo từng nhu cầu của anh ta” (theo nguyên văn từ câu “Jeder nach seinen Fähigkeiten, jedem nach seinen Bedürfnissen”). Và lẽ dĩ nhiên, thành quả khoa học ấy được hình thành trên cơ sở công hữu về tư liệu sản xuất, thì sẽ quay về phục vụ cho lợi ích chung của xã hội.


Thứ ba, quyền sở hữu trí tuệ không phải lúc nào cũng là công cụ thúc đẩy xã hội tiến lên như Bentham nhận định. Quyền sở hữu trí tuệ bị lạm dụng sẽ sinh ra độc quyền, dẫn đến tăng giá cả sinh hoạt, kìm hãm sự phát triển của xã hội.


Quyền sở hữu trí tuệ về lâu dài cũng sẽ ngày càng tích lũy tư bản vào trong tay thiểu số và xé toạc ranh giới giàu nghèo ra. Một vài người trong tầng lớp tư sản vì bị ảnh hưởng từ độc quyền và cạnh tranh cũng sẽ đi đến phá sản mà rơi vào hàng ngũ của giai cấp vô sản, thị trường hàng hóa thì ngày càng khan hiếm mà thị trường lao động cạnh tranh giữa những người vô sản ngày càng nhiều. Từ những lẽ đó, mâu thuẫn xã hội sẽ tiềm tàng nguy cơ vỡ trận.


Thế nhưng cần đặt ngược lại vấn đề. Khi xét đến khả năng quốc hữu hóa nền kinh tế của một xã hội cụ thể, cần xem xét xã hội ấy đã đáp ứng đủ tích lũy tư bản nhà nước và trình độ sản xuất hay chưa. Nếu chưa, thì việc áp dụng ngay tức khắc nền kinh tế kế hoạch chỉ vì muốn chữa ngay những cái khiếm khuyết của kinh tế thị trường là tả khuynh nóng vội. Trong thời kỳ quá độ lâu dài, kinh tế thị trường là một giai đoạn không thể tránh khỏi đối với con đường quá độ gián tiếp. Vì vậy nên phương án phù hợp trước mắt là làm sao để điều chỉnh cơ chế phân phối theo lao động trong quan hệ sản xuất, sao cho khai thác hiệu quả quyền sở hữu trí tuệ và hạn chế xé toạc ranh giới bất bình đẳng xã hội ra thêm. Và quan trọng nhất phải xác định được, mục tiêu cuối cùng của những chính sách ấy là gì.


Kết luận


Sở hữu trí tuệ có thể làm phát sinh độc quyền và các hệ lụy xã hội, tuy nhiên nó có thể là động lực để phát huy tính năng động và sáng tạo, hai động lực tiên quyết của nền kinh tế thị trường. Việc khai thác hiệu quả quyền sở hữu trí tuệ và triệt tiêu dần những ung nhọt khiếm khuyết của nó là một quá trình bền bỉ đi đôi với quá trình phát triển lực lượng sản xuất và cải tạo từng bước quan hệ sản xuất theo hướng XHCN. Không nên coi nó là chiếc chìa khóa vạn năng vĩnh cửu mà rơi vào hữu khuynh, càng không nên phủ nhận sạch vai trò của nó mà rơi vào tả khuynh./ .


(Bài viết lấy ý tưởng từ bài giảng về Luật Sở hữu trí tuệ của TS. Lê Nết)


Tài liệu tham khảo

1. Butler, B.E. (2021) Internet Encyclopedia of Philosophy

2. Schofield, P. S. and Hanris, J. (1998) The Collected Works of Jeremy Bentham - Legislator of the World

3. Duquete, D. (1999) George Wilhelm Friedrich Hegel - Social and Political Thought. Internet Encyclopedia of Philosophy

4. K.Marx. 1875. Kritik des Gothaer Programms


Share:

Thứ Sáu, 25 tháng 7, 2025

ÔN HÒA VÀ BẠO LỰC - TRƯƠNG DOÃN



“Song chúng tôi không bao giờ quyết đoán rằng để đạt tới mục đích đó, đâu đâu cũng phải dùng những biện pháp như nhau.

Chúng tôi biết rằng cần phải chú ý đến những thiết chế, phong tục và truyền thống của các nước khác nhau, và chúng tôi không phủ nhận rằng hiện có những nước như Mỹ, Anh - và nếu tôi hiểu biết rõ hơn về những thiết chế của các bạn thì tôi có thể thêm vào đó cả Hà Lan nữa, ở đây, công nhân có thể đạt tới mục đích của mình bằng biện pháp hoà bình. Nhưng nếu đúng là như thế đi nữa thì chúng tôi cũng phải thừa nhận rằng trong đại đa số các nước trên lục địa, bạo lực vẫn phải là cái đòn bẩy cho cuộc cách mạng của chúng ta; và có lúc sẽ phải dùng đến bạo lực để thiết lập một cách triệt để sự thống trị của người lao động.”

-Trích Bài diễn văn Hội Công nhân Quốc tế của Các Mác tại Am-xtơ-đam năm 1872


Đứng dưới lập trường Mácxít-Lêninnít ta phải khẳng định rằng không có công thức chung cho bất cứ cuộc cách mạng nào, bởi vì vậy sức mạnh của Chủ nghĩa Mác là phân tích cụ thể ở mọi tình hình cụ thể, học tập những kinh nghiệm có tính phổ quát và giải quyết những thứ không có tính phổ quát, vì mỗi nơi mỗi khác. Vấn đề bạo lực và ôn hoà cũng thế, từ khi các bậc tiền bối cách mạng như Mác, Ăngghen, Lênin ra đi thì vấn đề vốn tưởng chừng rất căn bản đã bị bỏ quên, ngày nay các Đảng Cộng Sản cũng phát triển lí thuyết Mác mà chỉ chăm chăm xuyên suốt một công thức trên tiến trình đấu tranh của họ.


Đầu tiên phải hiểu rõ hai khái niệm, đứng trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin quan điểm về nhà nước chính là công cụ đàn áp giai cấp dưới của giai cấp thống trị, chính vì vậy cũng trực tiếp nảy ainh đấu tranh bạo lực là phương thức đấu tranh sử dụng vũ lực để trực tiếp lật đổ giai cấp thống trị; Còn đấu tranh ôn hoà là phương thức đấu tranh tạo tiền đề để lật đổ giai cấp tư sản bằng tổng thể các hành động tuần hành, kêu gọi, biểu tình, đình công, đấu tranh trong nghị viện, các yếu tố trên diễn ra đồng bộ và dồn dập. Về bản chất, bạo lực không có nghĩa là diễn ra xuyên suốt mà phải đúng thời điểm; Ôn hoà không có nghĩa là chùn bước mà còn là con đường gian nan hơn nữa, hoàn toàn khác biệt với cải lương và cải cách, bởi vì nếu những người cải lương ủng hộ chủ nghĩa cải cách muốn từng bước thay đổi chủ nghĩa tư bản thì biện pháp ôn hoà của những người Mác-xít thường là để tạo tiền đề cho cách mạng vô sản, hoặc nếu chuyên chính tư sản quá yếu thì có thể dành chính quyền ngay, nhưng vẫn phải thực hiện cách mạng vô sản nhanh chóng trong một nước để bảo vệ nền cách mạng ấy. Song, cũng phải hiểu cách dùng từ "ôn hoà" của người viết có phần khác với một số người, vì thường từ "ôn hoà" lại bị đánh đồng với "hữu khuynh".


Bây giờ ta tiến tới xét về bối cảnh thực tiễn, như ta biết thời điểm chín mùi cho cách mạng vô sản là khi chủ nghĩa tư bản đang trong chu kì tổng khủng hoảng dẫn tới mâu thuẫn giai cấp đi đến đỉnh điểm, hiển nhiên sẽ đưa tổ chức Đảng Cộng Sản mạnh lên và vươn dài cánh tay của mình đến khắp đất nước bằng hệ thống quần chúng chặt chẽ và cơ sở chi bộ Đoàn Đảng. Tuy nhiên, không phải lúc nào phong trào cách mạng cũng sẽ xuất hiện suôn sẻ với khuôn mẫu như vậy, kể cả khi chu kì tổng khủng hoảng chủ nghĩa tư bản xảy ra cũng không như kịch bản vẽ sẵn, bởi vì quy luật tổng khủng hoảng có liên quan mật thiết với sự suy thoái của thị trường tiền tệ và sản xuất hàng hoá, nó còn là cuộc chiến tối đa lợi ích song song giữa các nhà tư sản, giữa các người mua và giữa người mua với người bán. Rút ra ở đây, nếu nhóm tư sản cũ đã suy yếu đi, một nhóm tư sản mới thay thế vị trí thống trị kinh tế của tư sản cũ trước kia, giúp nền kinh tế tư bản ấy trở lại giàu có nhờ sự tích lũy tư bản. Tiếp tục quy luật cạnh tranh và mở ra quy luật phát triển tiếp theo của chủ nghĩa tư bản. Chính vì vậy, vẫn phải xét đến sự hồi phục của chủ nghĩa tư bản trong một thời gian ngắn, đòi hỏi chính đảng cách mạng phải kiên trì phát triển tổ chức và lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm kim chỉ nam cho mọi hành động. Cũng từ đó, ta có ba điều kiện mà ta phải có cách giải quyết khác : Thứ nhất, là tổ chức cách mạng còn rất yếu, cho nên không thể thực hiện cách mạng vô sản; Thứ hai, là chế độ chuyên chính tư sản yếu đi, cho nên bạo lực này không cần thiết nữa. Nhưng đó chỉ là phân tích ở hai chủ thể mâu thuẫn, còn lòng tin của giai cấp vô sản nói chung và mọi tầng lớp lao động mới là thứ quyết định. Cũng từ đây, chính là mấu chốt để càng phân tích sâu vấn đề ôn hoà và bạo lực.



Khi phân tích mối liên hệ biện chứng giữa hai khái niệm này, trước hết là ta xét từ bên trong bản chất đấu tranh ôn hoà và đấu tranh bạo lực, ta thấy : Đấu tranh ôn hoà đồng thời có hai mâu thuẫn nội tại là phải đấu tranh hợp pháp và vừa đấu tranh bất hợp pháp. Còn đấu tranh bạo lực có mâu thuẫn nội tại là vừa phải đàn áp thiểu số đi bóc lột mà vừa phải giữ lấy cơ sở quần chúng. Trong chính sự tồn tại của đấu tranh ôn hoà là để tạo tiền đề cho mâu thuẫn hoặc giải quyết một mâu thuẫn nhưng không có tính phổ quát giống như bạo lực cách mạng, chỉ có nhiệm vụ duy nhất là giải quyết hoàn toàn mâu thuẫn.


Trong những điều kiện cụ thể, ôn hoà và bạo lực sẽ được vận dụng đan xen với nhau, đấu tranh ôn hoà sẽ thực hiện đan xen hoạt động hợp pháp như nghị trường, công tác công đoàn và hoạt động bất hợp pháp như vũ trang hoá nhân dân giống như đường lối của Đảng Lao Động Dân Chủ Xã Hội Nga những năm trước cách mạng; Và khi bè lũ thống trị hết cách, khi thời cơ đến hoặc ngay khi chúng hết cách mà chuyển sang đàn áp, sẽ chín muồi cho bạo lực cách mạng. Nhìn chung, đấu tranh bạo lực là đòn giải quyết mâu thuẫn trước tiên, còn đấu tranh ôn hoà là đòn chiến lược chính trị. Tuy nhiên, tùy vào điều kiện thực tiễn để phát triển đường lối xây dựng và đấu tranh, chẳng hạn nếu trong nước có những mâu thuẫn nội tại khó giải quyết hơn như Trung Quốc thì Mao Trạch Đông đã sáng tạo ra chiến lược "Chiến tranh nhân dân trường kì".


Sự xuất hiện của Chủ nghĩa xét lại Khơ-rút-chốp và Chủ Nghĩa đế quốc xã hội Bơ-réc-nhép là nhát dao lớn nhất cho mối liên hệ biện chứng giữa con đường bạo lực và ôn hoà. Cho đến sau sự sụp đổ của Liên Xô, những người chỉ trích mặt ôn hoà trong mối liên hệ này là tả khuynh xuất phát từ sự không hiểu rõ khái niệm này; Còn những người bác bỏ tính bạo lực trong phương thức đấu tranh là những kẻ hữu khuynh, họ xuất phát từ tính tư sản hèn nhát, sợ đấu tranh. Ta phải kiên quyết phê phán những quan điểm phi-biện chứng này.


Những điều trên là lý thuyết, chúng ta cũng cần bàn tới trong thực tế lịch sử. Một phong trào đấu tranh tiêu biểu là của Đảng Cộng Sản Đức (KPD) do Ơn Tha-man lãnh đạo chuyển hướng từ cách mạng vô sản sang việc đấu tranh nghị trường và lãnh đạo công đoàn để đợi ngày tiến hành cách mạng vô sản một lần nữa, tiếc thay làn sóng của những kẻ quốc xã lại làm cho một trong những hy vọng về cách mạng vô sản tại Đức không thành, nhưng cũng phải thừa nhận đó là Đảng Cộng Sản Đức khi ấy đã bị tả khuynh khi cô lập các Đảng có công nhân tín nhiệm cao hơn giống như Đảng Dân Chủ Xã Hội (SPD). Một ví dụ khác là tại Chi-lê, Đảng Xã Hội của A-len-đê đã thắng cử năm 1970 và ông tiến hành nỗ lực xây dựng chuyên chính vô sản rồi đến năm 1973 ông đã bị lật đổ, sai lầm của ông là ảo tưởng có thể xây dựng chuyên chính vô sản Chi-lê trên chính bộ máy tư sản, và nghiêm trọng nhất là ông không mau chóng vũ trang hoá toàn dân để mau chóng thực hiện một cuộc đảo chính thần tốc quét sạch đám nội phản trong bộ máy, cho nên kết cục của ông là một bài học cho chúng ta.


Nói tóm lại, ta có thể khẳng định rằng : Bạo lực cách mạng là cốt lõi vì tính phổ quát của nó,  ôn hoà là điều kiện có thể nhưng hiếm bởi vì tính không phổ quát của nó. Quan trọng nhất, phải hiểu rõ tất cả những điều này, nắm rõ duy vật biện chứng để thoát khỏi cả hai nạn tả khuynh và hữu khuynh.


Lưu ý rằng, bài viết này chỉ là sự nhắc lại học thuyết Mác - Lênin, nhất là có một số tình tiết trùng hợp với vài thời điểm tình hình cách mạng trong quá khứ.


Share:

Thứ Sáu, 27 tháng 6, 2025

LÝ GIẢI SỰ BÁ QUYỀN CỦA TRUNG QUỐC - GÀ RỪNG

 





Trung Quốc đang trỗi dậy, đó là một sự thật không phải bàn cãi. Kể từ sau các cải cách kinh tế mang tính bước ngoặt dưới thời Đặng Tiểu Bình, nền kinh tế của Trung Quốc đã chuyển từ kế hoạch hóa tập trung sang cho phép kinh tế tư nhân tồn tại và thu hút vốn đầu tư nước ngoài, dựa vào nền tảng đó, kinh tế Trung Quốc tăng trưởng phi mã trong các thập niên tiếp theo, vượt qua các “ông lớn” tư bản như Nhật, Đức để trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới sau Hoa Kỳ. Một mặt, giới cầm quyền nước này gọi các cải cách ấy là “Chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc”, nhưng về bản chất, nền kinh tế Trung Quốc hiện nay là sự kế thừa không đầy đủ mô hình tư bản nhà nước [1], khi mà chính quyền trung ương và giới tư bản cùng phối hợp với nhau để tham gia vào thị trường. Và như một quy luật của lịch sử, khi chủ nghĩa tư bản phát triển đến đỉnh điểm, nó dần chuyển mình thành chủ nghĩa đế quốc. Trung Quốc ngày nay chính là một ví dụ điển hình.

Nguyên nhân cho vấn đề này là gì ? Có hai nguyên nhân: Chính trị và kinh tế. Theo quan điểm cá nhân, tôi cho rằng kinh tế là động lực trực tiếp, nhưng chính trị là nền tảng của vấn đề, do vậy, bài viết này sẽ đào sâu vào nguyên nhân chính trị hơn. Tất nhiên nguyên nhân kinh tế cũng sẽ được tôi đề cập.

Trước tiên là về chính trị. Tôi cho rằng đảng cầm quyền của Trung Quốc hiện nay (ĐCSTQ) đang theo chủ nghĩa xét lại [2] – là xu hướng xét lại, thay đổi, điều chỉnh những nguyên lý cơ bản và mang tính cốt lõi của chủ nghĩa Marx – Lenin như đấu tranh giai cấp, chuyên chính vô sản hay quan hệ về sản xuất. Để làm rõ hơn khái niệm trừu tượng này, chúng ta cùng đến với Học thuyết con mèo của Đặng Tiểu Bình cùng lời nhận định nổi tiếng mà hầu như những ai tìm hiểu về chính trị đều ít nhất một lần được nghe qua - “Mèo trắng hay mèo đen không quan trọng, miễn là bắt được chuột” [3]. Có nghĩa là gì ? Có nghĩa là không quan trọng là tư bản hay xã hội chủ nghĩa, thứ nào có thể phát triển kinh tế thì được áp dụng. Và trong trường hợp này, Đặng Tiểu Bình đã cho phép tư bản tồn tại trên đất Trung Quốc.

Trong những năm đầu của Liên bang Xô Viết, Lenin cũng đã từng cho phép thị trường tự do và chủ nghĩa tư bản tồn tại [4]. Tuy nhiên, bản thân Lenin cũng luôn xem nó chỉ là một giải pháp tạm thời để khôi phục nền kinh tế sau Đệ Nhất thế chiến và nội chiến. Còn Trung Quốc thì ngược lại. Từ khi thực hiện các cải cách, họ luôn xem tư bản như công cụ không thể thiếu trong chiến lược phát triển quốc gia. Như vậy ta có thể thấy, Học thuyết con mèo chính là tiền đề, là mảnh đất màu mỡ cho chủ nghĩa tư bản có cơ hội phát triển ở Trung Quốc một cách lâu dài.

Để tiếp tục đào sâu hơn vào vấn đề này thì chúng ta phải quay ngược về năm 2004, khi mà Thuyết Ba Đại diện của Giang Trạch Dân chính thức được cụ thể hóa thành các điều cơ bản trong Hiến pháp [5]. Một mặt, nó kế thừa những đường lối được vạch ra trước đó bởi Đặng Tiểu Bình, mặt khác, nó chính là cột mốc đánh dấu sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc Trung Hoa và đặc biệt là bỏ qua các lý luận về đấu tranh giai cấp, vốn là cốt lõi của Triết học Marx – Lenin.  

Vậy thì Ba Đại diện nghĩa là sao ? Đại diện cho cái gì ? Câu trả lời đều lấy trung tâm là Đảng Cộng sản Trung Quốc. Thứ nhất, ĐCSTQ là đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến nhất. Thứ hai, ĐCSTQ là đại diện cho nền văn hóa tiên tiến nhất. Cuối cùng, ĐCSTQ đại diện cho quyền lợi của đa số quần chúng. Nói thẳng ra, thì thay vì đại diện cho quyền lợi của giai cấp vô sản (chủ yếu là công nhân, nông dân), thuyết Ba Đại diện cho rằng ĐCSTQ là đại diện của mọi tầng lớp xã hội, bao gồm cả giới tư sản, chủ doanh nghiệp - những thành phần vốn là mục tiêu đấu tranh của tư tưởng Marx – Lenin chính thống. Về mặt kinh tế, thuyết này cũng cho thấy sự xa rời chủ nghĩa xã hội của Trung Quốc khi khẳng định vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế quốc gia. Hậu quả là sau này, xã hội Trung Quốc dần hình thành giới “tư bản đỏ”. Cho dễ hiểu thì “tư bản” ở đây chính là các cá nhân giàu có, nắm trong tay nhiều của cải, tiền bạc, tài sản, “đỏ” ở đây là có mối quan hệ hoặc dựa vào chính trị để làm giàu. Bằng chứng là rất nhiều các chủ doanh nghiệp, tỷ phú Trung Quốc cũng đồng thời là đảng viên như Mã Vân (Jack Ma) [6] hay Vương Kiện Lâm [7]. Ở các cấp hành chính thấp như phường, xã, thị trấn, “tư bản đỏ” cũng nắm giữ những chức vụ cao, có vai trò lãnh đạo. Thậm chí giới chủ doanh nghiệp cũng dần thâm nhập, “có chân” trong các cơ quan có vai trò tham mưu, tư vấn, đề xuất chính sách phát triển cho chính phủ, điển hình như Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân [8]. Nên nhớ rằng trong những năm đầu thành lập, Liên Xô cũng cho phép tư nhân và kinh tế thị trường tồn tại [9]. Tuy nhiên, nó luôn được đặt dưới sự quản lý chặt chẽ của chuyên chính vô sản, trái ngược hoàn toàn với hiện trạng của ĐCSTQ ngày nay, để giới tư sản len lỏi vào lực lượng lãnh đạo tiên phong của giai cấp vô sản.

Về mặt tổng quát, thuyết Ba Đại diện cho rằng, ĐCSTQ thay vì là đại diện cho quyền lợi của giai cấp cần lao, thì nay được xem là “đảng của toàn dân” và tư nhân được coi là “lực lượng sản xuất tiên tiến” của quốc gia. Dù về danh nghĩa vẫn là xã hội chủ nghĩa, nhưng về bản chất, ĐCSTQ đang nghiên về phía giới chủ doanh nghiệp hơn là về phía nhân dân lao động, mặc cho bất bình đẳng giàu nghèo ngày càng tăng. Bản thân tôi cho rằng, chủ nghĩa xét lại đã làm Trung Quốc, hay đúng hơn là ĐCSTQ đi chệch khỏi con đường chủ nghĩa xã hội bằng sự thỏa hiệp với chủ nghĩa tư bản. Nó không khác gì sự thoái lui của giai cấp vô sản, phủ nhận sự đấu tranh giai cấp trong Triết học Marx – Lenin. Và cũng theo Triết học Marx – Lenin, khi chủ nghĩa tư bản đã “có đất” để sinh sôi và được tạo điều kiện để phát triển đến đỉnh cao, chủ nghĩa đế quốc và tham vọng bành trướng sẽ tự khắc xuất hiện.

Sau là nguyên nhân kinh tế. Ta có thể giải thích dễ dàng bằng các lý luận của Lenin mà cốt lõi là khái niệm xuất khẩu tư bản [10]. Khi chủ nghĩa tư bản phát triển chóng mặt ở Trung Quốc sau một thời gian dài, thị trường trong nước dần bão hòa và không còn khả năng sinh lời cao nữa. Lúc này, các nhà tư bản Trung Quốc buộc phải mở rộng thị trường ra khỏi phạm vi nội địa và tiếp cận các nguồn nguyên liệu thô từ bên ngoài. Việc bành trướng lãnh thổ, bá quyền, cốt là để bảo vệ những nguồn lợi kinh tế đó cho giới tư bản Trung Quốc. “Đường 9 đoạn” và Biển Đông là một ví dụ điển hình.

Sự thay đổi về lượng sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất, chủ nghĩa đế quốc của các nước Phương Tây năm xưa hay sự bành trướng của Trung Quốc ngày nay đều sinh ra khi chủ nghĩa tư bản phát triển đến đỉnh điểm, chỉ khác là nó được hậu thuẫn bởi chủ nghĩa xét lại và núp dưới cái danh xã hội chủ nghĩa mà thôi. Nhìn từ góc độ Marx - Lenin, tôi cho rằng chủ nghĩa bá quyền của Trung Quốc ngày nay chỉ có thể bị đánh đổ bằng sự đấu tranh giai cấp. Do vậy các lực lượng vô sản toàn cầu, từ Việt Nam tới Ấn Độ, từ Nhật Bản đến Mã Lai, từ Phi Luật Tân đến Pakistan và từ mọi quốc gia khác, không phân biệt màu da, tiếng nói hay sắc tộc, cần phải hợp sức, đoàn kết với lực lượng vô sản Trung Quốc để dẹp tan chủ nghĩa bá quyền của nước này. 

-------------------------------------------
[1]: https://en.wikipedia.org/wiki/State_capitalism
  [2]:https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BB%A7_ngh%C4%A9a_x%C3%A9t_l%E1%BA%A1i_(ch%E1%BB%A7_ngh%C4%A9a_Marx) 

[3]: https://en.wikipedia.org/wiki/Cat_theory_(Deng_Xiaoping)
 
[4]: https://en.wikipedia.org/wiki/New_Economic_Policy
 
[5]: https://vi.wikipedia.org/wiki/Ba_%C4%91%E1%BA%A1i_di%E1%BB%87n 

[6]: https://tuoitre.vn/ti-phu-ack-ma-duoc-cong-bo-la-dang-vien-dang-cong-san-trung-quoc-20181127113337206.htm 

[7]: https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C6%B0%C6%A1ng_Ki%E1%BB%87n_L%C3%A2m
 
[8]: https://nghiencuuquocte.org/2016/06/11/thuyet-ba-dai-dien-three-represents-theory/ 

[9]: https://en.wikipedia.org/wiki/New_Economic_Policy 

[10]: Vladimir Ilyich Lenin – “Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản” – bản dịch tiếng Việt – trang 103 – Nhà xuất bản Tiến bộ





Share:

Thứ Tư, 25 tháng 6, 2025

CHÍNH SÁCH KINH TẾ MỚI Ở NGA - TRƯƠNG DOÃN

 






1.Sơ lược.

Chính sách kinh tế mới hay viết tắt là “NEP” là chính sách kinh tế tạm thời do Lênin đề ra để áp dụng cho Chính quyền Xô-viết bắt đầu từ 1921 và kết thúc vào năm 1928 bởi Xtalin.


2. Bối cảnh.

Trong thời kì chiến tranh Cách mạng Nga, Chính quyền Xô-viết để phục vụ chiến tranh và duy trì hậu cần thì phải áp dụng chính sách “Cộng sản Thời chiến” là chính sách nhà nước kiểm soát toàn bộ nền kinh tế, tích lũy hàng hoá và tiếp tế cho quân đội và các miền đang đói, độc quyền tất cả lương thực thừa của nông dân, phân phối hàng hoá dựa trên tem phiếu 1*.


Tuy nhiên, sau khi cách mạng giành thắng lợi thì nhà nước Liên Bang Xô-viết bắt đầu giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội. Một vấn đề cơ bản nảy sinh : Vì nước Nga Xô-viết và các nước Xô-viết khác vốn là các nước có nền sản xuất Tư bản Chủ nghĩa mức trung bình,  còn ở các nước thành viên khác trong Liên Bang thậm chí có nền sản xuất phong kiến lạc hậu do bị Chính quyền Sa Hoàng thực hiện chính sách đàn áp văn hoá và kinh tế trong liên tiếp nhiều năm 2*. 


Từ những vấn đề trên, ban đầu thì có một số nhà hoạt động mang nặng tư tưởng giáo điều, chưa hiểu rõ hoặc cố làm sai lệch quy luật kinh tế Mác-xít đã cho rằng nước Nga khi đó không có các cơ sở tiền đề kinh tế khách quan để xây dựng Chủ nghĩa Xã hội, chẳng hạn như ông Ni-cô-lai Su-kha-nốp đã bị Lênin phê phán trong tác phẩm “Cuộc cách mạng của chúng ta” 3*.


Lúc bấy giờ, chỉ có hai con đường cho toàn thể Liên Bang : Thật linh hoạt để bằng mọi giá tiến lên cứu lấy nền kinh tế nước nhà; Hay tiếp tục trì trệ dẫu bánh xe lịch sử tiếp tục quay? May mắn thay, Đảng Cộng Sản Bôn-sê-vích đã chọn phương án đầu tiên, nhưng họ trong giai đoạn ấy đã bắt đầu thế nào, ta sẽ nghiên cứu tiếp theo.


3. Kinh tế Liên Xô trong thời kì chính sách NEP.

3.1) Tính Chất Của Chủ Nghĩa Tư Bản Nhà Nước Xô-viết.

Trước hết, trong các giai đoạn phát triển của Chủ nghĩa Tư bản. Khi nền kinh tế Chủ nghĩa Tư bản tự do tồn tại sơ khai trước kia đã không còn hiệu quả nữa, nhà nước sẽ phản ứng bằng cách can thiệp sâu rộng vào nền kinh tế tư nhân đó và vận hành kinh tế tư nhân nhưng vẫn có sự chỉ đạo và kế hoạch của nhà nước. Chủ nghĩa Tư bản nhà nước không chỉ xuất hiện ở các nhà nước Tư sản mà còn là ở các nhà nước Xã hội Chủ nghĩa. Tuy nhiên, vẫn có sự khác biệt về bản chất và vai trò giữa chế độ đó ở hai kiểu nhà nước kia đã được Lênin chỉ ra :


*Thứ nhất, về bản chất, mục đích mà nó tồn tại so với Chủ nghĩa Tư bản nhà nước ở các nước Tư sản:

“Chủ nghĩa tư bản nhà nước, một trong những khía cạnh chính của Chính sách kinh tế mới, dưới quyền lực của Liên Xô, một hình thức chủ nghĩa tư bản được giai cấp công nhân cố ý cho phép và hạn chế. Chủ nghĩa tư bản nhà nước của chúng ta khác về bản chất với chủ nghĩa tư bản nhà nước ở các quốc gia có chính quyền tư sản ở chỗ nhà nước với chúng ta không phải do giai cấp tư sản đại diện, mà là giai cấp vô sản, những người đã thành công trong việc giành được lòng tin hoàn toàn của giai cấp nông dân.” 4*.


*Thứ hai, cơ sở thực tế để đảm bảo nó tồn tại vững chắc và hiệu quả mà không sụp đổ hay thoái trào :

“Thực ra, quyền lực chính trị của Xô Viết đối với mọi phương tiện sản xuất quy mô lớn, quyền lực trong nhà nước nằm trong tay giai cấp vô sản, liên minh của giai cấp vô sản này với hàng triệu nông dân nhỏ và rất nhỏ , sự lãnh đạo chắc chắn của giai cấp vô sản đối với nông dân, v.v., … chẳng phải đây là tất cả những gì cần thiết để từ các hợp tác xã – chỉ từ các hợp tác xã mà trước đây chúng ta coi là buôn bán, và về một khía cạnh nào đó, chúng ta có quyền coi như vậy hiện nay, theo chính sách kinh tế mới – chẳng phải đây là tất cả những gì cần thiết để xây dựng một xã hội xã hội chủ nghĩa hoàn chỉnh sao? Đây chưa phải là xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa nhưng đó là tất cả những gì cần thiết và đủ cho việc xây dựng này.” 5*.


Cuối cùng, chủ nghĩa tư bản ở một góc độ nào đó có đi ngược chủ nghĩa xã hội không?

“Chủ nghĩa xã hội chỉ là bước tiến tiếp theo từ độc quyền nhà nước tư bản… không cuộc nổi loạn nào có thể mang lại chủ nghĩa xã hội trừ khi các điều kiện kinh tế cho chủ nghĩa xã hội đã chín muồi… chủ nghĩa tư bản nhà nước độc quyền là sự chuẩn bị vật chất hoàn chỉnh cho chủ nghĩa xã hội, ngưỡng cửa của chủ nghĩa xã hội, một bậc thang trên chiếc thang lịch sử mà giữa nó và bậc thang được gọi là chủ nghĩa xã hội không có bậc thang trung gian nào .” 6*.


3.2) Chính sách Kinh Tế.

*Thứ nhất, về các thành phần kinh tế :

“Chúng ta hãy liệt kê những yếu tố sau:


(1) chế độ phụ hệ, tức là ở mức độ đáng kể, nông dân canh tác theo phương thức lạc hậu;


(2) sản xuất hàng hóa nhỏ (bao gồm phần lớn những người nông dân bán ngũ cốc của họ);


(3) chủ nghĩa tư bản tư nhân;


(4) chủ nghĩa tư bản nhà nước;


(5) chủ nghĩa xã hội.” 7*.


*Thứ hai, thuế lương thực mà người dân phải nộp là thuế hiện vật, nghĩa là phải nộp thuế bằng hiện vật hiện có 7*.


3.3) Ý Nghĩa.

Như vậy, ý nghĩa về sự tồn tại của NEP là :

-Kết thúc chủ nghĩa cộng sản thời chiến.

-Cho phép một thị trường và các thành phần kinh tế phi-xã hội chủ nghĩa để kích thích kinh tế tăng trưởng.

-Phục hồi kinh tế, phát triển lực lượng sản xuất.

-Có sự điều tiết của chế độ chuyên chính vô sản.


—⟩ Quan trọng nhất, cũng là mục đích cuối cùng của chính sách này là : Thiết lập nền tảng cần thiết cho việc tạo ra nền kinh tế quốc dân-kế hoạch để tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội cho đến ngày thắng lợi.


4) Kết quả.

Ở lĩnh vực sản xuất, về nông nghiệp, tính tới năm 1924/25 thì tổng sản lượng tất cả các ngành đã tạo ra hơn 9 tỷ rúp cho nền kinh tế; Về mặt công nghiệp, tính tới 1924/25 thì tổng sản lượng các ngành thì nó đã tạo ra 5 tỷ rúp. Nói tóm lại, tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình giữa năm trước chiến tranh là 1913 và năm sau chiến tranh 1924/25 là 82%.


Ở gốc độ về vai trò của các thành phần kinh tế chính trong nền kinh tế. Về việc thống kê tích lũy sở hữu vốn, nhà nước giữ 11,7 tỷ rúp còn khu vực tư nhân chỉ có 7 tỷ rúp; Về thị phần giữa quốc doanh và hợp tác xã so với tư nhân trong tổng sản lượng công nghiệp, thì trong năm 1924-25 quốc doanh và hợp tác xã chiếm 79,3%, còn tư nhân là 20,7%.


Vấn đề điện khí hóa, tính đến năm 1924/25 đã xây dựng các trạm có công suất 152,35 nghìn killowat 8*.


Nói tóm lại, NEP là sự thành công của việc vận dụng linh hoạt Chủ nghĩa Mác-Lênin, tạo tiền đề cho việc xây dựng nền kinh tế quốc dân-kế hoạch hoá thịnh vượng và huy hoàng sau này.

___________

Chú thích :

1* : Đại Hội Đại Biểu Đảng Bôn-sê-vích lần thứ 9 năm 1920


2* : Nhân Quyền Ở Liên Xô - An-bớt Xgi-man-xki (Albert Szymanki) trên nền tảng Prolewiki


3* : Cuộc cách mạng của chúng ta - Lênin


4* : Gửi đến thuộc địa Nga ở Bắc Mĩ - Lênin.


5* : Về hợp tác - Lênin


6* : Cách chống lại thảm hoạ sắp xảy ra - Lênin.


7* : Thuế hiện vật - Lênin.


8* : Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương đến Đại hội lần thứ 14 của Đảng Cộng sản Liên Xô (Bôn-sê-vích) - Stalin


Share:

Lời chào đồng chí

Hình bóng của chúng tôi khi lướt qua Lenin chỉ như những con người xa lạ, hâm mộ Người, tôn trọng Người. Đi lướt qua Người và chìm vào quên lãng... Đọc tiếp

Cách mạng tháng Tám
Cách mạng tháng Tám

CHUYÊN SAN THÉP ĐỎ